Có một thời, đất nước điêu linh, dân tình thống khổ, tuổi trẻ mất hướng, đạo pháp có nguy cơ bị lồng ghép, uốn nắn vào khuôn khổ nhà nước dưới quyền điều hành của một đảng phái chính trị thế tục, Sư lên tiếng phản đối.
Tiếng nói của Sư như tiếng gầm sư tử, chấn động sơn lâm, muông chim khiếp sợ. Nhà nước bắt giam, kết án tử hình Sư. Trong tù, trước tòa, Sư vẫn hiên ngang, biểu lộ dũng khí của một tử tù, một nhà tu xem tứ đại giai không.
Bản án tử hình của Sư do sự can thiệp của quốc tế cũng như sự vận động của các đồng đạo trong nước, ngoài nước, đã được giảm thành chung thân, rồi xuống 20 năm, rồi 14 năm, Sư được phóng thích.
Ra khỏi nhà tù, Sư liền vùi đầu vào việc giảng dạy, dịch thuật, sáng tác đồng thời tham gia công cuộc phục hoạt giáo hội. Giáo hội ấy đã bị cấm chỉ hoạt động từ hơn hai thập niên trước đó. Sư tiếp tục cất tiếng nói của kẻ sĩ, viết kháng thư và nhiều văn bản khác phản đối chính sách hà khắc, bất công của chế độ đối với dân tộc và đạo pháp.
Rồi từ ba nhân tố (1) cốt lõi của giáo hội, Hội đồng Lưỡng viện (2) được công khai tuyên bố phục hoạt, tự khẳng định sự tồn tại của mình trong lòng đạo pháp và dân tộc. Nhưng đối với chế độ cầm quyền, đây như là một thách thức của một tôn giáo đối với quyền lực chính trị; do đó, chính quyền phải ra tay. Trước hết phải triệt hạ Sư và các vị đồng viện trong nước; tiếp đến là giải tán các giáo hội hải ngoại với thuyết âm mưu là có một lực lượng ủng hộ Sư nhằm đưa Sư lên làm lãnh đạo tối cao. Giáo hội từ đó bị thao túng bởi một cư sĩ hoạt đầu chính trị cùng một số vị tăng tham quyền, phe phái, đã phá nát, phân rẽ tổ chức từ trong nước ra đến hải ngoại. Từ lâu Sư vốn đã là một cái gai đối với chế độ cầm quyền, nay lại bị đồng đạo và các tổ chức chính trị tố giác như là một kẻ vì địa vị danh vọng mà quay lưng với giáo hội, thỏa hiệp với bạo quyền.
Từ đó, có một thời Sư im lặng. Sư rút về tĩnh thất, cặm cụi phiên dịch kinh điển và âm thầm đào tạo một thế hệ Tăng Ni trẻ với đầy đủ chánh kiến, ngôn ngữ, và kiến giải Phật học. Trong khi đó, trên thực tế sinh hoạt của giáo hội, cũng như trên các diễn đàn ảo và liên mạng xã hội, nhiều đồng đạo và các vị nhân danh chống chính quyền độc tài, đã vu khống, mạ lỵ, chửi bới Sư với những lời lẽ thâm độc, nặng nề, thậm chí lỗ mãng – đến nỗi người đọc tin có cảm tưởng như Sư lại bị đưa lên đoạn đầu đài để “tử hình” lần nữa, chỉ bằng ngôn từ xấu ác, tàn độc. Và đến nỗi, 163 nhà văn, nhà thơ và trí thức tự do ở ngoài nước, đã phải ký tên trong “Bản lên tiếng của văn nghệ sĩ tự do về trường hợp nhà thơ Tuệ Sỹ” vào ngày 26/10/2007, nhằm bảo vệ văn thi hữu của mình, bất kể vai trò tôn giáo của Sư:
“Hiến chương Văn Bút Quốc Tế (International PEN) minh định rằng, văn chương không có biên giới, không tùy thuộc vào các biến cố chính trị của các dân tộc... / hội viên văn bút chủ trương tự do báo chí và cũng cương quyết chống lại việc lạm dụng tự do báo chí để đăng tải những tin tức không xác thực, ngụy tạo hoặc xuyên tạc sự thật với mục đích cá nhân hay chính trị.
Trong tinh thần đó, chúng tôi, những văn nghệ sĩ tự do, hết sức bất bình trước những thông tin có tính cách hàm hồ, võ đoán, từ một số báo chí, điện tử thư, diễn đàn tin tức liên mạng chính trị hay tôn giáo, qua đó, các tác giả hữu danh hoặc nặc danh, đã kết án, cáo buộc, xuyên tạc, nhục mạ văn hữu của chúng tôi là Tuệ Sỹ với những tội danh hoặc phẩm chất xấu một cách vu vơ không bằng chứng. Một trong những cáo buộc tâm điểm của chiến dịch vu khống xuyên tạc này cho rằng Tuệ Sỹ thỏa hiệp hoặc đi theo cộng sản, trong khi chính Tuệ Sỹ từng là một người cầm bút bất khuất, kiên cường cất lên tiếng nói của lương tâm để chống lại sự bạo ngược bất công của chế độ cộng sản, đến nỗi phải nhận bản án tử hình...
Trong khi Tuệ Sỹ vẫn còn sống trong nước, bị kiểm soát và bị giới hạn về ngôn luận thì ở hải ngoại, với quyền tự do phát biểu được hiến pháp bảo vệ, người ta đã dùng cái quyền cao quý ấy để công kích, chụp mũ, mạ lỵ ông một cách tàn nhẫn, không chút tiếc thương. Và trong khi một số báo chí, diễn đàn hải ngoại rầm rộ trong chiến dịch vu khống, triệt hạ uy tín của Tuệ Sỹ suốt nhiều tháng qua, người ta chỉ thấy ông một mực im lặng. Sự im lặng này có thể đối với ông là điều tự nhiên của một nhà tu trong hạnh nhẫn nhục, nhưng đối với những người cầm bút, chúng tôi thấy nó đã và đang trở thành cơ hội tốt cho những tâm địa xấu xa, tiếp tục phát ngôn bừa bãi, tấn công vào một người không phương tự vệ hoặc không có ý biện bạch bào chữa.” (3)
Dù các văn nghệ sĩ tự do đã lên tiếng như thế, những người tỵ hiềm, đố kỵ, thù ghét Sư, vẫn tiếp tục xuyên tạc, vu khoát, tố giác Sư trên khắp các diễn đàn. Trong khi đó, Sư vẫn im lặng không một lời cãi chính, biện bạch, dù bằng đối thoại trực tiếp (với các vị đồng viện trong giáo hội) hay bằng một văn bản nào trên mạng xã hội. Sư lặng lẽ, chỉ lo việc dịch thuật, giảng dạy.
Cho đến một ngày, sau hơn 14 năm im lặng (từ năm 2005 bị loại ra khỏi Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo mà không có một văn thư chính thức nào), Sư đã được Hòa thượng Thích Quảng Độ ủy thác việc điều hành Viện Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (4). Bấy giờ, giáo hội chỉ còn mỗi HT Thích Quảng Độ sau khi ra Quyết định số 12, giải tán toàn bộ nhân sự của Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo (5). Trước tình huống như vậy, Sư biết Sư là nhân tố cuối cùng, là kỳ vọng tối hậu của tiền nhân để thừa tiếp mạng mạch giáo hội. Sư không thể chối từ. Sư im lặng tâm lãnh sự ủy thác.
Vậy là, có một thời Sư lại lên tiếng. Lần này là lên tiếng cho sự tồn vong của giáo hội, và cho tương lai của Phật Pháp. Sư viết: “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không phải là một hiệp hội thế tục, do đó, không tự đặt mình dưới sự chỉ đạo của bất cứ quyền lực thế tục, không là công cụ bảo vệ sự tồn tại của bất cứ xu hướng chính trị, của bất cứ tổ chức thế tục nào; không hành đạo, hoằng đạo theo bất cứ định hướng ý thức hệ nào; duy chỉ một định hướng duy nhất: Thập phương Bạc-già-phạm nhất lộ Niết-bàn môn; một cứu cánh duy nhất là giải thoát.” (6) Đây là sự trùng tuyên lập trường của giáo hội đồng thời tái định hướng cho các thế hệ Tăng Ni và Phật tử mai sau.
Với thân lão bệnh ở cuối đời, Sư để lại một di sản đồ sộ của văn hóa giáo dục và khơi mở công trình phiên dịch Thánh điển cho hàng hậu duệ nhằm tiếp nối sự nghiệp trí tuệ của tiền nhân, của tương lai Phật giáo Việt Nam.
Một đời 80 năm của Sư, nói năng như Chánh pháp, im lặng như Chánh pháp. Nói hay im cũng vì Phật Pháp, vì lợi ích của số đông. Không ngại lên tiếng trước bạo quyền dù phải đối diện với án tử hình; và kham nhẫn im lặng đối với đồng đạo, tôn sư dù phải chịu bao điều tiếng thị-phi, oan ức.
Có thể nói công hạnh như vậy là công hạnh của hàng Thánh giả.
_________________
(1) Ba vị lãnh đạo trụ cột của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là Hòa thượng Thích Huyền Quang (Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo), Hòa thượng Thích Quảng Độ (Tổng Thư ký Viện Hóa Đạo) và Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ (thành viên Hội đồng Phiên dịch Viện Tăng Thống). Ba vị đều là những lãnh đạo cao cấp của giáo hội, từng bị tù đày, lao lý, quản thúc suốt từ năm 1975. Nhà cầm quyền luôn tìm cách cô lập, ly gián, dập tắt tiếng nói của ba vị nhưng không thành công.
(2) Hội đồng Lưỡng viện gồm 2 viện là Viện Tăng Thống và Viện Hóa Đạo. Ngày 01/10/2003, tại Đại hội Nguyên Thiều (Bình Định), Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất công bố thành phần nhân sự của Lưỡng viện, trong đó HT. Huyền Quang được suy tôn Đệ tứ Tăng Thống (từ Đại hội triển khai tại Tu viện Quảng Đức, Úc châu ngày 10, 11 & 12/10/2003); HT. Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo; TT. Thích Tuệ Sỹ, Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo; cùng với hơn 30 vị tôn túc trong và ngoài nước, được thỉnh vào Hội đồng Giáo Phẩm Trung ương Viện Tăng Thống và Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ.
(3) Mời đọc toàn văn bản và xem danh sách các văn nghệ sĩ tự do nhiều thế hệ đã lên tiếng như sau: https://www.vinhhao.info/Tapghi/Ban%20len%20tieng%20ve%20truong%20hop%20nha%20tho%20Tue%20Sy.htm
(4) Ngày 24 tháng 5 năm 2019, HT. Thích Quảng Độ ban hành Giáo Chỉ số 14, nói rõ:
“Điều 2: Thỉnh cử Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ thay Tôi đứng đầu vào vị trí của Viện Tăng Thống, bảo đảm tiếp tục sứ mệnh của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong tương lai. Tôi hoàn toàn tin tưởng và ủy thác trọng trách này cũng như trao toàn quyền cho Hòa Thượng Tuệ Sỹ điều hành mọi hoạt động của Giáo Hội.
“Điều 3: Bất cứ lúc nào, khi hội đủ điều kiện thuận duyên, Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ thay mặt Viện Tăng Thống triệu tập Đại Hội Bất Thường để bầu cử nhân sự mới cho tất cả các chức vụ trong Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.”
(5) Quyết Định số 12 do Đức Đệ Ngũ Tăng Thống GHPGVNTN, ban hành vào ngày 25 tháng 11 năm 2018, với Điều 4 và Điều 5 như sau: “Điều 4: Giải tán mọi nhân sự và chức vụ trong Ban Chỉ đạo Viện Hoá Đạo nhiệm kỳ 2018 – 2020 quy định trong Giáo chỉ số 18 do Viện Tăng Thống ban hành ngày 8 tháng 8 năm 2018.” “Điều 5: Trong thời gian chờ Viện Tăng Thống triệu tập Đại hội bất thường GHPGVNTN công cử nhân sự mới cho Viện Hoá Đạo, tạm ngưng mọi hoạt động của Viện Hoá Đạo cùng mọi nhân sự Ban Chỉ đạo quy định trong Giáo chỉ số 18 do Viện Tăng Thống ban hành ngày 8 tháng 8 năm 2018.”
(6) GHPGVNTN, Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương Trân Trọng Công Bố (Số 01/VTT/HDGPTW/TC), ngày 01/9/2022.
______________________________________________________________
BẢN LÊN TIẾNG
CỦA VĂN NGHỆ SĨ TỰ DO VỀ TRƯỜNG HỢP NHÀ THƠ TUỆ SỸ
Hiến chương Văn Bút Quốc Tế (International PEN) minh định rằng, văn chương không có biên giới, không tùy thuộc vào các biến cố chính trị của các dân tộc... / hội viên văn bút chủ trương tự do báo chí và cũng cương quyết chống lại việc lạm dụng tự do báo chí để đăng tải những tin tức không xác thực, ngụy tạo hoặc xuyên tạc sự thật với mục đích cá nhân hay chính trị (Literature knows no frontiers and must remain common currency among people in spite of political or international unheavals… / PEN declares for a free press… / And since freedom implies voluntary restraint, members pledge themselves to oppose such evils of a free press as mendacious publication, deliberate falsehood and distortion of facts for political and personal ends – Source: https://www.pen-international.org/who-we-are ).
Trong tinh thần đó, chúng tôi, những văn nghệ sĩ tự do, hết sức bất bình trước những thông tin có tính cách hàm hồ, võ đoán, từ một số báo chí, điện tử thư, diễn đàn tin tức liên mạng chính trị hay tôn giáo, qua đó, các tác giả hữu danh hoặc nặc danh, đã kết án, cáo buộc, xuyên tạc, nhục mạ văn hữu của chúng tôi là Tuệ Sỹ với những tội danh hoặc phẩm chất xấu một cách vu vơ không bằng chứng. Một trong những cáo buộc tâm điểm của chiến dịch vu khống xuyên tạc này cho rằng Tuệ Sỹ thỏa hiệp hoặc đi theo cộng sản, trong khi chính Tuệ Sỹ từng là một người cầm bút bất khuất, kiên cường cất lên tiếng nói của lương tâm để chống lại sự bạo ngược bất công của chế độ cộng sản, đến nỗi phải nhận bản án tử hình; rồi nhờ sự can thiệp của các cơ quan tôn giáo, nhân quyền cũng như văn nghệ sĩ khắp thế giới, bản án này đã được giảm xuống thành chung thân khổ sai và cuối cùng, thành án tù hai mươi năm.
Trong khi Tuệ Sỹ vẫn còn sống trong nước, bị kiểm soát và bị giới hạn về ngôn luận thì ở hải ngoại, với quyền tự do ngôn luận, người ta đã dùng cái quyền cao quý ấy để công kích, chụp mũ, mạ lỵ ông một cách tàn nhẫn, không chút tiếc thương. Và trong khi một số báo chí, diễn đàn hải ngoại rầm rộ trong chiến dịch vu khống, triệt hạ uy tín của Tuệ Sỹ suốt nhiều tháng qua, người ta chỉ thấy ông một mực im lặng. Sự im lặng này có thể đối với ông là điều tự nhiên của một nhà tu trong hạnh nhẫn nhục, nhưng đối với những người cầm bút, chúng tôi thấy nó đã và đang trở thành cơ hội tốt cho những tâm địa xấu xa, tiếp tục phát ngôn bừa bãi, tấn công vào một người không phương tự vệ hoặc không có ý biện bạch bào chữa.
Tuệ Sỹ là một người cầm bút mà qua các tác phẩm cũng như qua cách sống, đã làm sáng ngời phẩm tiết của một sĩ phu trí thức cũng như đức hạnh của một nhà tu trước nỗi thống khổ đọa đày của quê hương. Chúng tôi thiết nghĩ, những kết án không bằng chứng nhắm vào Tuệ Sỹ chính là hành vi phủ nhận những gì cao đẹp cần thiết cho tiến trình đấu tranh nhằm phục hồi nhân quyền và tự do cho dân tộc Việt Nam nói riêng, nhân loại nói chung.
Với nhận thức trên, và trong tư cách là những văn nghệ sĩ tự do, chúng tôi đồng ký tên dưới đây, yêu cầu hãy chấm dứt ngay các phát ngôn triệt hạ uy tín cá nhân, xúc phạm phẩm giá nhắm vào Tuệ Sỹ mà không có những bằng chứng cụ thể và khả tín. Chúng tôi luôn cổ xúy cho quyền tự do ngôn luận và báo chí nhưng đồng thời cũng cực lực phản đối các hành vi chà đạp nhân phẩm và vô trách nhiệm khi thực thi quyền tự do ngôn luận và báo chí ấy.
Hải ngoại ngày 26 tháng 10 năm 2007
Văn nghệ sĩ tự do đồng ký tên:
(26.10.07): Phạm Công Thiện, Doãn Quốc Sỹ, Viên Linh, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Phan Tấn Hải, Trần Quang Thuận, Bùi Ngọc Đường, Huỳnh Kim Quang, Vĩnh Hảo, Đặng Thị Quế Phượng, Thanh Trí Cao, Chiêu Hoàng, Nhiên An, Đăng Tâm, Vân Phong, Lâm Bích Nhy, Nguyễn Thanh Huy, Ngô Văn Quy, Từ Tú Trinh, Uyên Nguyên, Mỹ Huyền, Trịnh Gia Mỹ, Lê Trúc, Nguyễn Trung Tín, Vũ Tiến Lập, Tâm Minh Ngô Tằng Giao;
(27.10.07): Diệu Trân Linh Linh Ngọc, Phan Bá Thụy Dương, Hạnh Cơ, Thiếu Khanh, Lý Thừa Nghiệp, Huệ Thu, Lâm Như Tạng, Đăng Nguyên, Võ Đình, Trần thị Laihồng, Trầm Bội Phương, Vy Vy, Song Nhị, Nguyễn Hữu Hiệu, Đinh Đặng Trường Như (Trung Kỳ), Hoàng Ngọc Liên, Ninh Hạ, Dương Huệ Anh, Hoàng Đình Báu, Võ Doãn Nhẫn, Vương Thúy Nga, Võ Quỳnh Uyển, Trần Trung Đạo, Nguyễn Thị Thanh Bình, Lâm Xương Yên, Trần Huy Bích, Thu Thuyền, Trực Tâm, Quỳnh My, Lê Minh Hiền, Phong Thu, Phan, Ngậm Ngùi;
(28.10.07): Diêu Linh, Lý Đợi, Hải Như, Bùi Ngọc Tuấn, Cao Xuân Huy, Vũ Thư Hiên, Bạch Xuân Phẻ, Lê Nguyên, Thích Hạnh Thức, Phạm Hoàng Chương, Phạm Văn Nhàn, Trương Đình Luận, Thiết Trượng, Thủy Lâm Synh, Tâm Diệu, Thúy Linh, Tô Mặc Giang, Ngọc Hân, Huỳnh Tấn Lê;
(29.10.07): Nguyên Hạnh, Thường Dzu, Đỗ Văn Học, Trần Thái Bảo, Đỗ Quý Toàn, Chân Huyền, Cao Nguyên, Lưu Trọng Tưởng, Như Hùng, Dương Thái Sơn, Lâm Hảo Dũng, Yên Chi, Minh Nguyệt, Quán Như;
(30.10.07): Hoàng Ngọc Tuấn, Võ Quốc Linh, Lê Anh Tuấn, Thái Kim Lan, Tâm Huyền, Trúc Huy, Trần Đức Phi Bằng;
(31.10.07): Nguyễn Mạnh Trinh, Không Quán, Phổ Đồng, Hoàng Thy Mai Thảo, Thích Trí Hoằng, Lê Phát Minh, Đỗ Xuân Trúc (Xuân Đỗ), Nguyễn Văn Nhớ, Cư sĩ Liên Hoa;
(01.11.07): Trần Thị Nhật Hưng, Thích Phước An, Hồ Phú Bông, Đan Hà, Trần Huy Sao, Nam Thanh, Lê Đình Cát, Tâm Nguyên, Từ Khoa Vũ Ngọc Châu, Huyền Trang;
(02.11.07): YLa Lê Khắc Ngọc Quỳnh, Nguyên Hiền Trần Tiễn Huyến, Trang Châu, Thành Nhân, Nguyễn Đức, Lý Kiến Trúc;
(03.11.07): Trần Đỗ Cung, Lam Nguyên, Nguyễn Văn Vinh;
(05.11.07): Đặng Hiếu Sinh, Tùng Sơn, Nguyễn Đức Bạt Ngàn, Diệu Anh;
(06.11.07): Thích Trí Chơn, Nhuận Hùng, Nguyễn Ước, T. Vấn;
(07.11.07): Lâm Chương, Sương Mai;
(08.11.07): Huỳnh Hữu Ủy, Lưu Tường Quang;
(09.11.07): Nguyễn Vĩnh Long, Nguyễn Vy-Khanh;
(10.11.07): Triều Hoa Đại, Thích Thắng Hoan, Đặng Thơ Thơ, Tư Đồ Minh, Cao Huy, Hoàng Ngọc Thư, Trịnh Thanh Thủy, Lữ;
(11.11.07): Trần Doãn Nho, Chân Phương, Nguyễn Trọng Khôi, Hồ Lãng Bạc, Nguyễn Hoàng Tranh.
(sau ngày 11.11.07): Hồ Trường An, Hoàng Xuân Sơn, Trần Mộng Tú, Khê Kinh Kha, Trần Tiến Dũng, Lê Bảo Kỳ và Hồ Hương Lộc.
Bản Lên Tiếng này được khởi đầu vận động từ 11 giờ sáng ngày 26.10.2007 và kết thúc vào 11 giờ tối, ngày 11.11.2007, với chữ ký tán đồng ủng hộ của 163 văn nghệ sĩ Việt Nam khắp nơi trên thế giới. Ngoài chữ ký của văn nghệ sĩ, chúng tôi cũng đã đón nhận sự bày tỏ nhiệt tình và cảm động của quý vị sĩ phu trí thức ở nhiều quốc gia, tán đồng quan điểm của Bản Lên Tiếng, cất tiếng bảo vệ phẩm giá của nhà thơ Tuệ Sỹ, yểm trợ tinh thần các văn nghệ sĩ ký tên, qua danh sách “Ký Tên Liên Đới cùng văn nghệ sĩ tự do” với 65 vị (bắt đầu từ ngày 29.10 và kết thúc cùng ngày).
Với thời gian vận động ngắn ngủi và chỉ giới hạn trong phạm vi điện tử thư và vài trang lưới điện toán, chúng tôi rất tiếc đã không thể phổ biến Bản Lên Tiếng này đến khắp các văn thi hữu và quý vị thiện tri thức; do đó, tất nhiên đã có rất nhiều vị chưa kịp biết đến, một số vị chưa bao giờ dùng máy điện toán để biết về Bản Lên Tiếng, một số vị chỉ mới vừa được văn hữu giới thiệu nhưng chưa kịp gửi chữ ký đến chúng tôi.
Vì thế, qua thư này, chúng tôi xin thành thật xin lỗi quý văn thi hữu và thức giả không có cơ hội để bày tỏ sự ủng hộ của mình, đồng thời gửi đến quý văn thi hữu đã ký tên cả chân tình và niềm tri ân sâu xa của chúng tôi.
Bản Lên Tiếng với chữ ký đúc kết ngày hôm nay, xin kính gửi đến quý văn thi hữu và thiện tri thức đã ký tên hay không ký tên để lưu và tham khảo, cùng quý vị chủ trương các cơ quan truyền thông để kính nhờ phổ biến.
Trân trọng cảm ơn sự ủng hộ và giúp đỡ của quý vị.
California, 11 tháng 11, năm 2007.
T.M. Văn nghệ sĩ vận động chữ ký,
Vĩnh Hảo
oOo
Danh sách Ký tên LIÊN ĐỚI cùng VĂN NGHỆ SĨ TỰ DO
(29.10.2007): Nguyễn Út, Nguyễn Thi Thu (couturière), Nguyễn Duy Quang (ingénieur), Nguyễn Thế Vinh (technicien), Nguyễn Quốc Nam (sinh viên);
(30.10.2007): Lê Viết Lâm (Ht.GĐPT - Sydney), Quang Nhã Hoàng Văn Lang (Ht. GĐPT), Le Ha (USA), Le Thi My (USA), Thanh Khuong (Canada), Tran Kim Khanh (USA), Khanh Nguyen (USA), Huynh Yen Nhu (USA), Le My Phuong (Australia), Dieu Hien (Australia), Trần Tuấn Kiệt (Pháp), Lê Văn Phuông (VN), Mỹ Lệ (Sài Gòn), Thanh Liêm (Canada), Huỳnh Phương (Pháp), Nguyễn Hữu Tuấn (Ht.GĐPT), Tâm Phương;
(31.10.2007): Tran Kim Khanh (CT, USA), Nguyen Thao (TX, USA), Khanh Nguyen (NE, USA), Tâm Thể - Nguyen Dang Diep (Ht.GĐPT CA, USA), Vo Diep (FL, USA), Việt Phi;
(01.11.2007): Nguyễn Hữu Bảo Long (Huntington Beach, California), Chánh Trí (Ht.GĐPT), Trịnh Long Hải (Paris – France), Huỳnh Hạnh (Đức quốc), Tạ Thị Tươi (Ý quốc), Lê Phong (France), Trần Hữu Trí (Paris),...
(02.11.2007): Trương Hương Thảo (Phap), Nguyễn Ánh Mai (Phap), Trần Văn Đáo (Canada);
(03.11.2007): Trần Trung Tín (Viet Nam), Nguyễn Trần Tuấn (Canada), Ngô Tấn Vĩnh (France), Nguyễn Trân Nhan Uyên (Canada),…
(04.11.2007): Lê Mậu Tảo (Đức quốc), Hoàng Hữu Định (Pháp), Nguyễn Phúc Tường (Anh quốc), Trần Đình Mỹ (Pháp),...
(05.11.2007): Nhật Bửu Hương, Thái Đỉnh (Ý quốc), Trịnh như Thảo (Pháp), Nguyễn Hoàng Anh (Pháp);
(06.11.2007): Dr. Bùi Hữu Tường (Đức quốc), Lê Tấn Lộc (Paris), Trần Bình Long (Anh quốc)...
(07.11.2007): Mạc Kim Bình (Việt Nam), Phạm Tịnh Thư (Ht. GĐPT),
(08.11.2007): Chan Mat Tu, Chan Mat Quan, Tam Tue Vien, Tam Tue Duc, Tam Tinh Thuc.
(09.11.2007): Trần Mỹ Dung, Trần Thị Tuyết (Tây Ban Nha), Ngô Quang Nhẫn (Canada), Nguyễn Văn Minh (Thái Lan);
(09.11.2007): Nguyễn Thị Việt Hương (Đức quốc), Trần Văn Hùng (Pháp), Nguyễn Minh Tâm (VN).