J401. Dasannaka Jātaka -- Sau khi hiến tặng, bố thí một thứ gì, đừng cảm thấy hối tiếc.
Tóm tắt: Một vị sư đứng trước nguy cơ từ bỏ cuộc sống tu hành vì những ám ảnh dai dẳng về người vợ cũ. Để giúp ông, Đức Phật đã kể một câu chuyện về một vị vua đã gả vợ mình cho một người đàn ông khác, nhưng rồi nàng lại bỏ trốn cùng người đàn ông đó. Nhà vua rơi vào tuyệt vọng cho đến khi một người đàn ông chứng minh sự nghiêm khắc trong hành động của nhà vua bằng cách nuốt một thanh kiếm. Chứng kiến điều này, nỗi nhớ nhung vợ của nhà vua đã tan biến.
.
Đức Phật từng kể câu chuyện này khi Ngài còn sống ở Kỳ Viên. Một vị sư thú nhận rằng ông ta đang vật lộn với cuộc sống vì cứ nghĩ về người vợ cũ. Đức Phật nói với ông ta: “Người phụ nữ đó cũng đã từng gây rắc rối cho ông. Từ lâu rồi, ông đã suýt chết vì đau khổ tinh thần vì bà ta, và chỉ sống sót nhờ những bậc hiền triết đã cứu ông.” Rồi Ngài kể câu chuyện từ quá khứ này.
Ngày xửa ngày xưa, tại thành Benares, có một vị vua vĩ đại tên là Maddava. Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn ở thành phố đó. Tên của ngài là Senaka.
Khi còn nhỏ, Senaka đã học tất cả các ngành khoa học ở thành Takkasila. Sau khi hoàn tất việc học, ngài trở về Benares. Nhờ trí tuệ tuyệt vời của ngài, vua Maddava đã phong ngài làm cố vấn hoàng gia về cả việc thế tục lẫn việc tâm linh. Mọi người trong thành đều kính trọng ngài, gọi ngài là “Senaka hiền triết”.
Một ngày nọ, con trai của vị tư tế hoàng gia đến hầu hạ nhà vua. Tại đó, chàng nhìn thấy hoàng hậu. Nàng ăn mặc rất đẹp và vô cùng xinh đẹp. Chàng đã yêu nàng ngay từ cái nhìn đầu tiên.
Khi chàng về nhà, chàng tương tư đến nỗi không chịu ăn uống và nằm dài trong đau khổ. Bạn bè hỏi chuyện gì đã xảy ra, và chàng nói với họ rằng chàng đã yêu hoàng hậu.
Nhà vua nghe tin con trai của vị tư tế vắng mặt và hỏi lý do. Khi biết lý do, chàng đã làm mọi người ngạc nhiên khi nói: "Được rồi, ta sẽ cho hoàng hậu ở lại với chàng trong bảy ngày. Chàng có thể tận hưởng sự bầu bạn của nàng tại nhà mình. Đến ngày thứ tám, chàng phải đưa nàng trở về."
Vậy là con trai của vị tư tế đã đưa hoàng hậu về nhà mình. Họ tận hưởng sự bầu bạn của nhau, và chẳng bao lâu sau, tình hình trở nên nghiêm trọng - họ đã yêu nhau say đắm.
Thay vì trả lại hoàng hậu vào ngày thứ tám, cặp tình nhân mới đã bí mật bỏ trốn. Họ vượt biên sang một vương quốc khác, và không ai biết họ đã đi đâu. Cuộc trốn chạy của họ giống như con tàu trên biển - không thể nào lần ra dấu vết.
Nhà vua đã tìm kiếm nàng khắp nơi, dùng thông báo công khai và nhiều sứ giả, nhưng không thể tìm thấy nàng. Cuối cùng, vua trở nên vô cùng đau buồn. Trái tim nhà vua bùng cháy vì đau buồn. Máu bắt đầu chảy ra từ miệng, rồi từ bụng. Bệnh tình của nhà vua trở nên rất nghiêm trọng.
Không một thầy lang nào trong hoàng gia có thể chữa khỏi cho ông.
Senaka thông thái nhận ra: "Đây không phải là bệnh lý. Nhà vua đau ốm vì nỗi buồn mất hoàng hậu. Ta có thể chữa khỏi cho ngài, nhưng cần một kế hoạch đặc biệt."
Senaka đề xuất một sự kiện công khai trong sân cung điện với Ayura và Pukkusa, nơi một người nuốt kiếm điêu luyện sẽ biểu diễn trước nhà vua từ ban công. Màn trình diễn này nhằm mục đích nhắc nhở nhà vua suy ngẫm về những lựa chọn khó khăn của chính mình, cuối cùng giúp vua giải tỏa nỗi buồn.
Ayura và Pukkusa đồng ý.
Một cuộc tụ họp lớn được tổ chức trong sân. Mọi người đến để thể hiện nhiều kỹ năng khác nhau. Một người đàn ông thậm chí còn nuốt một thanh kiếm sắc dài hơn ba mươi inches.
Ayura, Pukkusa và Senaka đưa nhà vua đến một cửa sổ để quan sát sự kiện từ trên cao. Nhìn thấy người nuốt kiếm, nhà vua hỏi Ayura: "Còn điều gì khó hơn thế nữa không?"
Ayura đáp: "Phải, còn có điều khó hơn - giữ lời hứa khi cho đi."
Nghe vậy, lòng nhà vua nhẹ nhõm hơn đôi chút. Ngài nhớ lại chính mình đã từng nói: "Ta sẽ gả hoàng hậu cho con trai của vị tư tế." Ngài đã hứa và thực hiện lời hứa đó. Ngài đã làm một việc khó khăn.
Vẫn còn tò mò, nhà vua hỏi Pukkusa xem còn điều gì khó hơn thế không. Pukkusa đáp: "Cho đi mà không hối hận còn khó hơn."
Điều này càng làm nỗi buồn của nhà vua vơi đi.
Cuối cùng, nhà vua nói: "Không ai khôn ngoan hơn Senaka. Ta cũng sẽ hỏi người ấy câu hỏi tương tự."
Senaka đáp: "Điều khó nhất trên đời là: khi ai đó tặng một món quà, dù lớn hay nhỏ, mà sau đó không hối hận. Điều đó còn khó hơn cả việc nuốt kiếm hay hứa hẹn."
Khi nghe những lời của Senaka, có điều gì đó đã thay đổi trong nhà vua. Ngài nghĩ: “Ta đã tự nguyện trao tặng hoàng hậu. Nhưng sau đó ta lại bám víu vào nàng trong tâm. Thật là ngu ngốc. Nếu nàng thực sự yêu ta, nàng đã không bỏ trốn đến một vùng đất khác. Tại sao ta phải đau khổ vì một người không yêu ta?”
Ngay khi nghĩ vậy, nỗi buồn của ngài tan biến – như giọt nước rơi khỏi lá sen. Cơ thể ngài trở nên thanh thản. Bệnh tật biến mất. Ngài khỏe mạnh trở lại.
Nhà vua cảm ơn Senaka và ban thưởng hậu hĩnh.
Sau khi kể câu chuyện, Đức Phật giảng giải bài học và tiết lộ danh tính của các nhân vật trong quá khứ. Hoàng hậu chính là người phụ nữ sau này đã cám dỗ nhà sư. Nhà vua chính là nhà sư. Ayura chính là Moggallana. Pukkusa chính là Sariputta. Hiền giả Senaka chính là Đức Phật.
Nghe câu chuyện này, nhà sư đã hiểu ra chân lý và đạt đến tầng giác ngộ đầu tiên, sơ quả Nhập Lưu.
.... o ....
J401. Dasannaka Jātaka -- After giving something away, do not feel regret afterward.
Summary: A monk was at risk of abandoning the monastic life due to lingering thoughts of his former wife. To help him, the Buddha shared a story about a king who had given his wife to another man, only for her to elope with that man. The king fell into despair until a man demonstrated the severity of the king’s actions by swallowing a sword. Witnessing this, the king’s longing for his wife vanished.
.
The Buddha once told this story while he was living in Jetavana. A monk had confessed that he was struggling because he kept thinking about his former wife. The Buddha said to him, “That woman caused trouble for you before, too. Long ago you almost died from mental suffering because of her, and only survived because wise men saved you.” Then he told this tale from the past.
A long time ago, in the city of Benares, there ruled a great king named Maddava. The Bodhisatta was born in a brahmin family in that city. His name was Senaka.
When young Senaka grew up, he studied all the sciences in the city of Takkasila. After finishing his studies, he returned to Benares. Because of his great wisdom, King Maddava made him the royal adviser for both worldly and spiritual matters. Everyone in the city respected him, calling him “Wise Senaka.”
One day, the son of the royal household priest came to serve the king. While there, he saw the chief queen. She was beautifully dressed and extremely lovely. He fell in love with her at first sight.
When he went home, he was so lovesick that he refused to eat and lay down in misery. His friends asked what was wrong, and he told them he was in love with the queen.
The king heard that the priest’s son was absent and asked why. When he learned the reason, he surprised everyone by saying, “Very well, I give the queen to him for seven days. He may enjoy her company at his home. On the eighth day, he must send her back.”
So the priest’s son took the queen to his house. They enjoyed each other’s company, and soon the situation became serious—they fell deeply in love.
Instead of returning the queen on the eighth day, the couple secretly ran away. They crossed into another kingdom, and no one knew where they had gone. Their escape was like the path of a ship on the sea—impossible to trace.
The king searched everywhere for her, using public announcements and many messengers, but he could not find her. Eventually he became deeply sad. His heart burned with grief. Blood began to flow from his mouth, and then from his stomach. His sickness became very serious.
None of the royal doctors could cure him.
Wise Senaka realized, “This is not a physical illness. The king is sick because of his sadness over losing the queen. I can cure him, but it will require a special plan.”
Senaka proposed a public event in the palace courtyard to Ayura and Pukkusa, where a skilled sword-swallower would perform before the king from a balcony. This demonstration aimed to prompt the king to reflect on his own difficult choices, ultimately helping him release his sorrow.
Ayura and Pukkusa agreed.
A big gathering was held in the courtyard. People came to show off many different skills. One man even swallowed a sharp sword over thirty inches long.
Ayura, Pukkusa, and Senaka brought the king to a window to watch the event from above. Seeing the sword-swallower, the king asked Ayura, “Is there anything harder than that?”
Ayura replied, “Yes, there is something harder—keeping one’s word when giving something away.”
Hearing this, the king’s heart became a little lighter. He remembered that he himself had said, “I will give the queen to the priest’s son.” He had made that promise and carried it out. He had done something difficult.
Still curious, the king asked Pukkusa if there was anything even harder than that. Pukkusa answered, “It is even harder to give something away and not regret it afterward.”
This made the king’s sorrow lighten even more.
Finally the king said, “No one is wiser than Senaka. I will ask him the same question.”
Senaka replied, “The hardest thing of all is this: when someone gives a gift, whether large or small, to feel no regret afterward. That is harder than swallowing a sword or making a promise.”
When the king heard Senaka’s words, something changed in him. He thought:
“I gave the queen away of my own free will. But afterward I clung to her in my mind. This is foolish. If she truly loved me, she would not have run away to another land. Why should I suffer for someone who did not love me in return?”
As soon as he thought this, his sorrow vanished—like a drop of water sliding off a lotus leaf. His body became calm. His sickness disappeared. He was well again.
The king thanked Senaka and rewarded him generously.
After telling the story, the Buddha explained the lessons and revealed the identities of the characters in the past. The queen was the same woman who now tempted the monk. The king was the monk himself. Ayura was Moggallana. Pukkusa was Sariputta. Wise Senaka was the Buddha himself.
Hearing this story, the monk understood the truth and reached the first stage of enlightenment.
.... o ....
J402. Sattubhasta Jātaka -- Hãy coi chừng, một con rắn có thể bò vào túi tiền.
Tóm tắt: Các vị tăng đang thảo luận về trí tuệ sâu sắc của Đức Phật. Đức Phật kể một câu chuyện về một Bà-la-môn được vợ sai đi ăn mày. Ông không hề biết rằng vợ mình đang ngoại tình, và một con rắn đã chui vào túi ông đang mang. Bồ Tát tiết lộ cả sự hiện diện của con rắn lẫn hành vi sai trái của vợ ông.
.
Khi Đức Phật còn ở tại Kỳ Viên, Ngài đã kể câu chuyện này để dạy về trí tuệ.
Ngày xưa, tại thành Benares, có một vị vua tên là Janaka. Bấy giờ, Bồ Tát sinh ra trong một gia đình Bà La Môn và được đặt tên là Senaka. Khi lớn lên, Ngài đến Takkasila và học hỏi tất cả các môn nghệ thuật và khoa học. Sau đó, Ngài trở về Benares.
Thấy Senaka thông tuệ, Vua Janaka đã phong Ngài làm cố vấn chính. Senaka đã dạy nhà vua cả việc thế tục lẫn giáo lý tâm linh. Ngài hướng dẫn nhà vua giữ Ngũ Giới, bố thí rộng rãi, giữ chay tịnh và thực hành Mười Thiện Nghiệp. Nhờ lời dạy của Ngài, cả vương quốc trở nên yên bình và đạo đức, gần giống như thời kỳ chư Phật xuất hiện trên thế gian.
Vào những ngày chay tịnh thiêng liêng, mọi người tụ họp trong một đại điện được trang hoàng lộng lẫy. Senaka giảng dạy Phật Pháp với trí tuệ uyên thâm, và người ta nói rằng lời dạy của Ngài nghe như lời dạy của một vị Phật.
Ngày xưa, có một ông Bà-la-môn lớn tuổi đã xin được một ngàn đồng tiền vàng và giao số tiền đó cho một gia đình Bà-la-môn khác trong khi ông lại đi ăn mày. Khi trở về, ông phát hiện gia đình đó đã phung phí hết số tiền và không có khả năng trả nợ, họ đã gả con gái mình cho ông để đền bù. Ông chấp nhận và chuyển đến một ngôi làng nhỏ gần Benares cùng với người vợ trẻ, người vợ này nhanh chóng say mê một chàng Bà-la-môn trẻ. Vì muốn ở bên người tình, cô giả vờ ốm và yêu cầu chồng thuê một người hầu gái. Tuy nhiên, ông nói rằng mình không có tiền để chi trả cho những chi phí đó, và cô đề nghị ông nên đi ăn mày lần nữa.
Cô chuẩn bị một túi đồ ăn khô cho ông, và ông lên đường đi khất thực. Ông gom góp được bảy trăm đồng tiền vàng và quyết định như vậy là đủ. Trước khi về nhà, ông ghé vào một quán nước để ăn uống. Khi đi uống nước, ông quên đóng chặt túi. Một con rắn đen ngửi thấy mùi thức ăn liền bò vào trong. Khi ông Bà-la-môn trở về, ông buộc chặt túi mà không nhìn vào bên trong rồi mang đi.
Một vị thần sống trên cây gọi ông: "Này Bà-la-môn, nếu hôm nay ông dừng lại trên đường, ông sẽ chết. Nếu ông về nhà hôm nay, vợ ông sẽ chết." Rồi vị thần biến mất.
Vị Bà-la-môn trở nên kinh hãi và bối rối. Khóc lóc vì sợ hãi, ông đi bộ đến thành Benares. Hôm đó là ngày chay tịnh linh thiêng, và rất nhiều người sẽ đến nghe lời dạy của Senaka. Họ nói với vị Bà-la-môn: "Hãy đi cùng chúng tôi. Senaka giảng bằng giọng nói như của Đức Phật."
Vị Bà-la-môn nghĩ: "Biết đâu vị thầy thông thái này có thể giúp ta vượt qua nỗi sợ hãi." Vì vậy, ông nhập vào đám đông và đứng gần giảng đường, run rẩy và tay cầm túi.
Senaka giảng rất hay, và cả đám đông đều hài lòng - tất cả mọi người trừ vị Bà-la-môn đang đứng khóc. Senaka nhận ra ông và nghĩ: "Người đàn ông này chắc hẳn đang mang trong mình nỗi buồn sâu sắc. Ta sẽ giúp ông ấy." Ngài gọi vị Bà-la-môn đến gần và yêu cầu ông giải thích nỗi khổ của mình.
Người Bà La Môn kể lại toàn bộ câu chuyện: "Nếu hôm nay tôi về nhà, vợ tôi sẽ chết. Nếu tôi không về nhà, vị thần nói tôi sẽ chết."
Senaka suy nghĩ kỹ và nhận ra sự thật: Con rắn nằm trong túi thức ăn của người Bà La Môn.
Senaka hiểu rằng: Nếu người Bà La Môn dừng lại trên đường để ăn, ông ta sẽ mở túi, con rắn sẽ cắn ông ta và ông ta sẽ chết; nếu ông ta về nhà, vợ ông ta sẽ mở túi, con rắn sẽ cắn cô ta và cô ta sẽ chết.
Senaka nói với ông ta: "Túi của ông có một con rắn. Đặt nó xuống đất, mở nó ra từ một khoảng cách an toàn và đập nó bằng một cây gậy."
Người Bà La Môn làm theo lời chỉ dẫn. Một con rắn đen lớn chui ra, đầu ngoi lên. Cả đám đông há hốc mồm kinh ngạc trước sự thông thái của Senaka.
Mọi người đều ngưỡng mộ Senaka, người, giống như một vị Phật, đã trực giác hiểu ra sự thật. Người Bà La Môn bày tỏ lòng biết ơn và dâng bảy trăm đồng tiền mà ông đã nhận được làm của cúng dường. Tuy nhiên, Senaka từ chối nhận tiền thưởng, thay vào đó, ngài tặng cho người Bà-la-môn một ngàn đồng tiền vàng kèm theo lời cảnh báo về sự không chung thủy của vợ ông ta và nguy cơ cô ta sẽ đưa tiền cho người tình. Ngài khuyên người Bà-la-môn giấu tiền gần một gốc cây ngoài làng và trở về nhà mà không có tiền.
Về đến nhà, ông ta thấy vợ mình đang ở cùng người tình. Cô ta giả vờ như không có chuyện gì xảy ra. Khi người Bà-la-môn nói với cô ta rằng ông ta đã giấu tiền bên ngoài, cô ta đã bí mật sai người tình đi ăn trộm.
Ngày hôm sau, khi người Bà-la-môn phát hiện tiền đã mất, ông ta quay lại gặp Senaka. Senaka đã bày ra một kế hoạch khôn ngoan: Ông ta yêu cầu người Bà-la-môn mời khách trong bảy ngày và quan sát xem vợ mình mời ai liên tục. Nhờ đó, họ đã phát hiện ra người tình của bà ta.
Senaka gọi người tình và người vợ đến trình diện. Người tình thú nhận đã ăn cắp tiền. Senaka trả lại tiền cho người Bà-la-môn, trừng phạt người vợ và người tình, và ban cho người Bà-la-môn danh dự cùng một nơi ở tốt.
Sau khi kết thúc câu chuyện, Đức Phật giải thích về những kiếp trước. Vị Bà-la-môn là Ananda. Thần cây là Sariputta. Khán giả là các vị tỳ kheo của Đức Phật. Hiền giả Senaka chính là Đức Phật trong một kiếp trước. Nghe câu chuyện, nhiều vị tỳ kheo đã chứng đắc quả vị Sơ quả.
.... o ....
J402. Sattubhasta Jātaka -- Beware, a snake might crawl into a money bag.
Summary: The monks are discussing the Buddha’s profound wisdom. The Buddha shares a story about a brahmin who was sent by his wife to collect alms. Unbeknownst to him, his wife was having an affair, and a snake had entered the bag he was carrying. The Bodhisatta revealed both the presence of the snake and his wife’s misconduct.
.
While the Buddha was staying at Jetavana, he told this story to teach about wisdom.
Long ago, in the city of Benares, there was a king named Janaka. At that time, the Bodhisatta was born into a Brahmin family and was named Senaka. When he grew up, he went to Takkasila and learned all the arts and sciences. Then he returned to Benares.
King Janaka saw how wise Senaka was and made him his chief adviser. Senaka taught the king both worldly duties and spiritual teachings. He guided the king to keep the Five Precepts, to give generously, to observe fasting days, and to follow the Ten Good Actions. Because of his teaching, the whole kingdom became peaceful and virtuous, almost like the time when Buddhas appear in the world.
On the holy fasting days, everyone gathered in a beautifully decorated hall. Senaka taught the Dharma with great wisdom, and people said his teaching sounded like that of a Buddha.
Once there was an elderly Brahmin who managed to collect a thousand coins through begging and entrusted the money to another Brahmin family while he went out again to beg. Upon his return, he found that the family had squandered the entire sum and, unable to repay him, they offered their daughter in marriage as compensation. He accepted and moved to a small village near Benares with his young wife, who soon became infatuated with another young Brahmin. Desiring to be with her lover, she pretended to be ill and requested her husband to hire a maid. However, he informed her that he had no money for such expenses, to which she suggested he should go begging once more.
She prepared a travel bag with dried food for him, and he left to beg. He collected seven hundred coins and decided it was enough. Before returning home, he stopped by a water place to eat. When he went to drink water, he forgot to close his bag tightly. A black snake smelled the food and crawled inside. When the Brahmin returned, he tied the bag without looking inside and carried it away.
A spirit living in a tree called out to him, “Brahmin, if you stop on the way today, you will die. If you go home today, your wife will die.” Then the spirit disappeared.
The Brahmin became terrified and confused. Crying with fear, he walked to the city of Benares. It was the holy fasting day, and many people were going to hear Senaka’s teaching. They told the Brahmin, “Come with us. Senaka teaches with a voice like a Buddha’s.”
The Brahmin thought, “Maybe this wise teacher can help me overcome my fear.” So he joined the crowd and stood near the teaching hall, trembling and holding his bag.
Senaka was teaching beautifully, and the whole crowd was pleased—everyone except the Brahmin, who stood crying. Senaka noticed him and thought, “This man must have some deep sorrow. I will help him.” He called the Brahmin forward and asked him to explain his trouble.
The Brahmin told the whole story: “If I go home today, my wife will die. If I don’t go home, the spirit said I will die.”
Senaka thought carefully and realized the truth: The snake was inside the Brahmin’s food bag.
Senaka understood that: If the Brahmin stopped on the road to eat, he would open the bag, the snake would bite him, and he would die; If he went home, his wife would open the bag, the snake would bite her, and she would die.
Senaka told him, “Your bag has a snake. Put it on the ground, open it from a safe distance, and hit it with a stick.”
The Brahmin did as instructed. A large black snake came out, raising its hood. The whole crowd gasped, amazed at Senaka’s wisdom.
Everyone admired Senaka, who, like a Buddha, intuitively understood the truth. The Brahmin expressed his gratitude and offered the seven hundred coins he had received as alms. Senaka, however, refused the reward, instead giving the Brahmin a thousand coins with a warning about his wife’s infidelity and the risk of her giving the money to her lover. He advised the Brahmin to hide the coins near a tree outside the village and to return home without any money.
At home, he found his wife with her lover. She pretended nothing was wrong. When the Brahmin told her he had hidden the money outside, she secretly sent her lover to steal it.
The next day, when the Brahmin found the money missing, he went back to Senaka. Senaka arranged a clever plan: He asked the Brahmin to invite guests for seven days and watch which Brahmin his wife invited every time. Through this, they discovered her lover.
Senaka had the lover and the wife brought forward. The lover confessed to stealing the money. Senaka returned the money to the Brahmin, punished the wife and the lover, and gave the Brahmin honor and a good place to live.
After finishing the story, the Buddha explained the past lives. The Brahmin was Ananda. The tree spirit was Sariputta. The audience was the Buddha’s monks. Wise Senaka was the Buddha himself in a past life. Hearing the story, many monastics attained the fruition of the First Path.
.... o ....
J403. Atthisena Jātaka -- Các nhà sư phải sống trong sạch và có những nhu cầu tối thiểu.
Tóm tắt: Các nhà sư đi khắp nơi xin nhân lực và vật liệu cho những túp lều họ đang xây dựng. Đức Phật khiển trách họ và kể một câu chuyện về một vị khổ hạnh thời xưa, khi được dâng một vương quốc, ông đã từ chối, cũng như ông từ chối đàn gia súc, vì các nhà khổ hạnh không cần những thứ đó.
.
Đức Phật kể câu chuyện này khi đang ở gần thị trấn Alavi, trong một ngôi đền tên là Aggalava. Câu chuyện liên quan đến một số quy tắc về việc xây dựng nơi ở cho các nhà sư. Ngài nhắc nhở các nhà sư rằng, từ rất lâu trước thời Đức Phật, ngay cả các tu sĩ của các tôn giáo khác cũng không thích cầu xin người khác, ngay cả khi các vị vua ban cho họ bất cứ thứ gì họ muốn.
Rồi Ngài kể câu chuyện từ quá khứ này.
Ngày xửa ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Benares, Bồ tát sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở một ngôi làng nhỏ. Tên của Ngài là Atthisena. Khi lớn lên, Ngài đã học tất cả các nghệ thuật quan trọng trong trường phái Takkasila nổi tiếng. Sau đó, nhận ra nỗi khổ đến từ dục vọng, Ngài quyết định trở thành một nhà tu khổ hạnh. Ngài đã thực hành sâu sắc, đạt được thần thông và tuệ giác cao siêu, và sống một thời gian dài trên dãy Himalaya.
Cuối cùng, Ngài xuống núi để mua những nhu yếu phẩm đơn giản như muối và giấm. Ngài đến thành Benares và nghỉ qua đêm trong một khu vườn. Ngày hôm sau, chàng vào kinh thành khất thực và đã đến được cung điện của nhà vua.
Nhà vua vô cùng ấn tượng trước phong thái điềm tĩnh và cao quý của Atthisena. Ngài mời chàng vào, mời ngồi trên sân thượng và dâng lên chàng những món ăn ngon tuyệt. Hài lòng với lòng biết ơn và sự hiện diện thanh thản của Atthisena, nhà vua đã mời chàng đến sống trong vườn thượng uyển. Nhà vua đến thăm chàng hai ba lần mỗi ngày để tỏ lòng tôn kính và lắng nghe những lời dạy của ngài.
Một ngày nọ, sau khi cảm động trước những lời dạy của Atthisena, nhà vua nói: "Hãy nói cho ta biết bất cứ điều gì chàng muốn. Chàng có thể cầu xin bất cứ điều gì, ngay cả từ chính vương quốc của ta." Nhưng Atthisena chẳng cầu xin gì cả.
Người khác thường cầu xin vua thứ này thứ kia, và nhà vua ban cho bất cứ thứ gì ngài có thể nếu ngài không quá tham luyến. Nhưng Atthisena luôn im lặng và không cầu xin gì cả.
Sau một thời gian, nhà vua tự hỏi: "Ai cũng đến cầu xin, nhưng Atthisena lại chẳng cầu xin gì cả. Chắc hẳn chàng rất thông thái. Ta sẽ hỏi chàng tại sao."
Một ngày nọ, sau bữa ăn sáng, nhà vua ngồi xuống bên cạnh và hỏi tại sao người khác thỉnh cầu mà Atthisena thì không bao giờ làm.
Atthisena trả lời rằng thỉnh cầu người khác là điều không dễ chịu, và từ chối những lời thỉnh cầu như vậy cũng không dễ chịu. Vì lý do đó, ngài không thỉnh cầu gì cả.
Nhà vua sau đó giải thích rằng đôi khi việc thỉnh cầu đúng lúc có lợi cho cả hai bên: nó giúp một người kiếm sống và cho người kia cơ hội làm việc thiện. Nhưng ngài cũng nói rằng người khôn ngoan không nên tức giận khi thấy người khác thỉnh cầu. Ngài khuyến khích Atthisena nói với ngài bất cứ điều gì ngài muốn, nói rằng lời thỉnh cầu từ một bậc thánh không bao giờ có thể sai.
Tuy nhiên, Atthisena không thỉnh cầu bất cứ điều gì. Ngài giải thích rằng thỉnh cầu là dành cho những người có ham muốn trần tục - những người sống như những người tại gia. Nhưng các nhà sư nên sống khác, với hành vi trong sạch và ít nhu cầu. Vì vậy, các nhà sư thường không thỉnh cầu.
Nhà vua lắng nghe một cách kính cẩn. Sau đó, muốn tỏ lòng rộng lượng, ngài dâng tặng Atthisena một ngàn con bò, bao gồm cả một con đầu đàn tốt. Nhưng Atthisena từ chối, nói rằng: “Thưa Đại vương, tôi xuất gia để sống thanh tịnh. Tôi không cần bò.”
Nhà vua chấp nhận lời dạy này. Ngài tiếp tục thực hành bố thí và các thiện hạnh khác. Cuối cùng, nhờ nỗ lực của mình, ngài được tái sinh vào cõi Phạm Thiên.
Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, Ngài giảng giải chân lý tâm linh, và nhiều vị tăng đã đạt đến quả vị giác ngộ đầu tiên. Sau đó, Đức Phật nhận ra những người trong câu chuyện: nhà vua trong câu chuyện là Ananda, và Atthisena chính là Đức Phật trong một kiếp trước.
.... o ....
J403. Atthisena Jātaka -- Monks ought to lead lives marked by pure conduct and minimal needs.
Summary: The monks go around asking people to provide workers and materials for the huts they are constructing. The Buddha reprimands them and shares a story about an ancient ascetic who, when offered a kingdom, declined it, just as he refused an offer of cattle, since ascetics have no need for such possessions.
.
The Buddha told this story while staying near the town of Alavi, in a shrine called Aggalava. It was related to some rules about building living quarters for monks. He reminded the monks that, long ago before the Buddha era, even priests of other religions did not like asking for things from others, even when kings offered them anything they wanted.
Then he told this story from the past.
A long time ago, when King Brahmadatta ruled in Benares, the Bodhisatta was born into a brahmin family in a small village. His name was Atthisena. When he grew up, he studied all the important arts in the famous school of Takkasila. Later, realizing the suffering that comes from desire, he decided to become a religious ascetic. He practiced deeply, gained high spiritual powers and insight, and lived for a long time in the Himalayas.
Eventually, he came down from the mountains to get simple necessities like salt and vinegar. He reached the city of Benares and stayed overnight in a garden. The next day, he went into the city to beg for food and reached the king’s palace.
The king was impressed by Atthisena’s calm and noble manner. He invited him in, gave him a seat on an upper terrace, and offered him excellent food. Pleased with Atthisena’s gratitude and peaceful presence, the king asked him to live in the royal garden. The king visited him two or three times a day to pay respect and listen to his teachings.
One day, after being moved by Atthisena’s teaching, the king said, “Tell me anything you want. You may ask for anything, even starting from my kingdom itself.” But Atthisena asked for nothing.
Other people often asked the king for things, and the king gave whatever he could if he was not too attached to it. But Atthisena always stayed silent and made no requests.
After some time, the king wondered, “Everyone else comes asking for something, but noble Atthisena asks for nothing at all. He must be very wise. I will ask him why.”
So one day, after the morning meal, the king sat down beside him and asked why other people made requests but Atthisena never did.
Atthisena answered that asking others for things was not pleasant, and rejecting such requests was also not pleasant. For that reason, he made no requests at all.
The king then explained that sometimes asking at the right time helps both sides: it helps one person gain a livelihood and gives the other a chance to do a good deed. But he also said that wise people should not be angry when they see people making requests. He encouraged Atthisena to tell him anything he might want, saying a request from a holy man could never be wrong.
Still, Atthisena did not ask for anything. He explained that making requests was for people with worldly desires—people who lived as householders. But monks should live differently, with pure conduct and few needs. Because of this, monks generally do not make requests.
The king listened respectfully. Then, wanting to be generous, he offered Atthisena a thousand cattle, including a fine leader of the herd. But Atthisena refused, saying, “Great king, I became a monk to live free of all defilements. I have no need for cows.”
The king accepted this teaching. He continued to practice generosity and other good deeds. In the end, through his efforts, he was reborn in the Brahma world.
When the Buddha finished telling the story, he explained the spiritual truths, and many monks reached the first stage of enlightenment. Then the Buddha identified the people in the story: the king in the story was Ananda, and Atthisena was the Buddha himself in a past life.
.... o ....
J404. Kapi Jātaka --Sống dưới quyền một nhà lãnh đạo ngu ngốc sẽ dẫn đến hủy hoại.
Tóm tắt: Các nhà sư thảo luận về việc Devadatta đã dẫn đoàn tùy tùng của y đến chỗ diệt vong. Đức Phật kể câu chuyện về một con khỉ đã xúc phạm một vị quan, và con khỉ đầu đàn 500 con đã phớt lờ lời khuyên khôn ngoan để tránh xa con người, cuối cùng dẫn đến sự diệt vong của chính y và đoàn tùy tùng.
.
Đức Phật kể câu chuyện này khi đang ở tại Kỳ Viên. Các vị sư đang nói về việc Đề Bà Đạt Đa vừa bị đất nuốt chửng, và Đức Phật giải thích rằng đây không phải lần đầu Đề Bà Đạt Đa bị tiêu diệt. Rồi Ngài kể câu chuyện từ quá khứ.
Ngày xửa ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Benares, Bồ Tát đã sinh ra làm một con khỉ. Ngài sống trong vườn của nhà vua, dẫn theo một đàn năm trăm con khỉ. Đề Bà Đạt Đa cũng sinh ra làm một con khỉ và sống trong cùng một vườn với đàn năm trăm con khỉ của y.
Một ngày nọ, vị tu sĩ của hoàng gia đến vườn để tắm rửa và chuẩn bị. Khi ông bước ra khỏi vườn, một con khỉ tinh nghịch trèo lên cổng và làm đổ phân lên đầu vị tu sĩ. Khi vị tu sĩ tức giận ngước lên, con khỉ lại làm đổ thêm phân, lần này vào miệng vị tu sĩ. Vị tu sĩ vô cùng tức giận. Ông tắm rửa và đe dọa đàn khỉ, nói rằng ông sẽ trả thù.
Những con khỉ khác kể lại cho Bồ Tát nghe chuyện đã xảy ra và vị thầy tư tế đang rất tức giận. Bồ Tát cảnh báo cả ngàn con khỉ: "Sống gần một người hung dữ và quyền lực là rất nguy hiểm. Chúng ta nên rời khỏi nơi này." Bồ Tát và đoàn tùy tùng rời đi vào rừng.
Tuy nhiên, vị thủ lĩnh khỉ còn lại—Đề Bà Đạt Đa—đã phớt lờ lời cảnh báo. Nó nói rằng sẽ suy nghĩ lại sau và ở lại trong vườn cùng với đoàn tùy tùng của y.
Một ngày nọ, một nữ tỳ đang giã gạo và phơi gạo dưới nắng. Một con dê bắt đầu ăn mất. Nàng dùng đuốc đang cháy đuổi theo con dê và đánh nó. Con dê bỏ chạy khi vẫn còn đang bốc cháy và cọ thân mình đang cháy vào tường của một túp lều cỏ gần chuồng voi. Túp lều bốc cháy, và lửa lan sang chuồng voi. Nhiều con voi bị bỏng, và các thầy lang voi không thể chữa khỏi.
Nhà vua hỏi vị thầy tư tế của gia đình xem ông có biết phương thuốc nào chữa cho voi không. Vị thầy tư tế nói: "Vâng, thưa đại vương. Phương thuốc là mỡ khỉ." Nhà vua hỏi làm thế nào họ có thể lấy được mỡ khỉ. Vị sư đáp: "Có rất nhiều khỉ trong vườn thượng uyển." Nhà vua bèn ra lệnh cho các cung thủ đi giết lũ khỉ.
Các cung thủ đi vào vườn thượng uyển và giết chết năm trăm con khỉ thuộc đàn khỉ của Đề Bà Đạt Đa. Chỉ có một con khỉ già thoát được, mặc dù bị thương. Nó chạy cho đến khi đến nơi Bồ Tát và đàn khỉ đang ở. Tại đó, nó gục xuống và chết.
Bầy khỉ thưa với Bồ Tát rằng con khỉ già đã chết vì một vết thương. Bồ Tát tập hợp bầy khỉ lại và giải thích rằng tai họa này xảy ra là do chúng sống gần một kẻ muốn hãm hại chúng. Ngài dạy lũ khỉ rằng ở gần kẻ thù sẽ gặp nguy hiểm, và sống dưới quyền một kẻ chỉ huy ngu ngốc sẽ dẫn đến sự hủy diệt.
Bồ Tát nói rằng một kẻ chỉ huy khôn ngoan và mạnh mẽ sẽ bảo vệ đàn khỉ của mình, nhưng một kẻ chỉ huy ngu ngốc sẽ mang lại rắc rối. Ngài cũng dạy rằng một người có đức hạnh, trí tuệ và học thức sẽ mang lại lợi ích cho cả bản thân và người khác, và người ta nên sống một mình như một vị thánh hoặc cẩn thận bảo vệ những người dưới sự chăm sóc của mình.
Sau khi dạy xong, Bồ Tát tiếp tục hướng dẫn đàn khỉ bằng trí tuệ và kỷ luật.
Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, Ngài giải thích rằng con khỉ bất tuân trong câu chuyện chính là Đề Bà Đạt Đa trong tiền kiếp, những con khỉ ngu ngốc chính là nhóm của Đề Bà Đạt Đa, và con khỉ khôn ngoan dẫn đầu chính là Đức Phật.
.... o ....
J404. Kapi Jātaka -- Living under a foolish leader results in ruin.
Summary: The monks discuss how Devadatta led his followers to ruin. The Buddha shares a story about a monkey who offended a minister, and how the leader of 500 monkeys ignored wise counsel to avoid humans, ultimately leading to the destruction of himself and his group.
.
The Buddha told this story while staying in Jetavana. The monks were talking about how Devadatta had recently been swallowed up by the earth, and the Buddha explained that this was not the first time Devadatta had been destroyed. Then he told this tale from the past.
A long time ago, when King Brahmadatta ruled in Benares, the Bodhisatta was born as a monkey. He lived in the king’s garden, leading a group of five hundred monkeys. Devadatta was also born as a monkey and lived in the same garden with his own group of five hundred monkeys.
One day, the king’s family priest went to the garden to bathe and get himself ready. As he walked out of the garden, a mischievous monkey climbed above the gate and dropped excrement on the priest’s head. When the priest looked up angrily, the monkey dropped more, this time into the priest’s mouth. The priest was furious. He washed himself and threatened the monkeys, saying he would take revenge.
The other monkeys told the Bodhisatta what had happened and that the priest was angry. The Bodhisatta warned all one thousand monkeys: “It is dangerous to live near someone who is angry and powerful. We should leave this place.” The Bodhisatta and his group left for the forest.
However, the other monkey leader—Devadatta—ignored the warning. He said he would think about it later and stayed in the garden with his followers.
One day, a female slave was pounding rice and left some rice to dry in the sun. A goat began eating it. She chased the goat with a burning torch and hit it. The goat ran away while still on fire and rubbed its burning body against the wall of a grass hut near the elephant stables. The hut caught fire, and the fire spread to the stables. Many elephants were burned, and the elephant doctors could not cure them.
The king asked his family priest if he knew of any remedy for the elephants. The priest said, “Yes, great king. The cure is monkey fat.” The king asked how they could get it. The priest replied, “There are many monkeys in the royal garden.” So the king ordered the archers to kill the monkeys.
The archers went to the garden and killed all five hundred monkeys belonging to Devadatta’s troop. Only one old monkey managed to escape, though wounded. He ran until he reached the place where the Bodhisatta and his monkeys were living. There he collapsed and died.
The monkeys told the Bodhisatta that the old monkey had died from a wound. The Bodhisatta gathered the monkeys and explained that this disaster had happened because they had lived near someone who wished them harm. He taught the monkeys that staying close to an enemy brings danger, and living under a foolish leader leads to destruction.
The Bodhisatta said that a wise and strong leader protects his group, but a foolish leader brings trouble. He also taught that a person with virtue, wisdom, and learning benefits both himself and others, and that one should either live alone as a saint or carefully guard those under his care.
After teaching this, the Bodhisatta continued to guide the monkeys with wisdom and discipline.
When the Buddha finished the story, he explained that the disobedient monkey in the tale was Devadatta in a past life, the foolish monkeys were Devadatta’s group, and the wise monkey leader was the Buddha himself.
.... o ....
J405. Baka-Brahma Jātaka -- Tin rằng thế giới này là vĩnh cửu sẽ dẫn đến sự ngu si.
Tóm tắt: Brahma Baka tin rằng sự tồn tại hiện tại của mình là vĩnh cửu. Đức Phật giải thích niềm tin này đã phát triển như thế nào nơi Brahma và sau đó kể lại câu chuyện về việc Baka đạt được vinh quang hiện tại nhờ những việc thiện đã làm trong quá khứ.
.
Trong khi Đức Phật đang ở tại Jetavana, các vị sư đang nói về một vị Phạm Thiên đầy quyền năng tên là Baka. Baka đã tin vào một quan niệm sai lầm. Ông ta tin rằng thế giới mà ông đang sống là vĩnh cửu, bất biến và trường tồn, và không có nơi nào khác để cứu rỗi ngoài thế giới này. Ông ta nghĩ rằng mọi thứ sẽ mãi mãi như vậy.
Trong một kiếp quá khứ, Baka đã thực hành thiền định. Nhờ vậy, ông được tái sinh vào những cõi trời rất cao. Đầu tiên, ông sống năm trăm kiếp ở cõi Vehapphala. Sau đó, ông sống sáu mươi bốn kiếp ở cõi Subhakinna. Sau đó, ông sống tám kiếp ở cõi Abhassara. Chính tại cõi trời cuối cùng này, tà kiến đã xuất hiện trong ông. Ông quên mất những kiếp trước của mình và không nhớ rằng mình đã tái sinh hết lần này đến lần khác. Vì không thể thấy được sự thật, ông tin rằng cõi trời hiện tại của mình là vĩnh cửu.
Đức Phật biết Baka đang nghĩ gì. Ngay lập tức, Đức Phật biến mất khỏi Jetavana và xuất hiện trên cõi trời của Baka.
Khi Baka nhìn thấy Đức Phật, ông chào đón Ngài nồng nhiệt và nói: “Kính chào Đức Phật. Đã lâu rồi Ngài mới đến đây. Thế giới này là vĩnh hằng, trường tồn, bất biến. Không có gì sinh ra ở đây, không có gì chết ở đây. Không có thế giới nào khác ngoài thế giới này. Đây là nơi cao nhất, và không có sự cứu rỗi nào khác ngoài nó.”
Đức Phật trả lời: “Baka đã sa vào vô minh. Ông [Baka] tin rằng một cái gì đó là vĩnh cửu trong khi nó không phải vậy. Ông [Baka] nói rằng không có sự cứu rỗi nào khác trong khi thực sự có.”
Baka nhận ra Đức Phật đã hoàn toàn nhìn thấy những tà kiến, ý tưởng sai lầm của mình. Cảm thấy áp lực, giống như một tên trộm sợ hãi cố gắng đổ lỗi cho người khác, Baka cố gắng chứng minh rằng các vị thần hùng mạnh khác cũng đồng ý với ông ta. Ông ta tuyên bố rằng có rất nhiều Phạm Thiên cũng tin vào quan điểm này.
Đức Phật điềm tĩnh trả lời và giải thích rằng cuộc đời trên cõi trời của Baka thực sự rất ngắn ngủi so với tuổi thọ vĩ đại của thế gian. Ngài nói với Baka rằng Ngài biết tất cả các kiếp trước của Baka, ngay cả những kiếp rất xa xưa.
Sau đó, Baka xin Đức Phật nói cho Ngài một điều gì đó có ý nghĩa.
Đức Phật nhắc Baka nhớ lại những việc thiện mà ông [Baka] đã làm từ lâu trong những kiếp trước - những điều mà chính Baka đã quên. Ngài nhắc ông nhớ lại những lần Baka đã giúp đỡ, cứu giúp hoặc giải thoát mọi người. Đức Phật cũng nhắc Baka rằng trong một kiếp trước, Đức Phật từng là đệ tử của Baka tên là Kappa.
Khi Baka nghe Đức Phật kể lại những việc lành bị lãng quên này, ông nhận ra rằng Đức Phật thực sự biết tất cả những kiếp trước của ông. Baka nhận ra kiến thức của mình còn hạn hẹp. Ông đảnh lễ Đức Phật và tán thán Ngài.
Đức Phật đã giảng chân lý về vô thường và con đường chân chính dẫn đến giải thoát. Sau khi giảng xong, mười ngàn vị Phạm Thiên đã hiểu chân lý và giải thoát tâm trí khỏi sự ràng buộc.
Sau khi giúp đỡ họ, Đức Phật từ cõi Phạm Thiên trở về Jetavana và giải thích rằng trong kiếp trước, Baka từng là đạo sĩ Kesava, và người đệ tử tên là Kappa chính là Đức Phật.
.... o ....
J405. Baka-Brahma Jātaka -- Believing that this world is permanent leads to ignorance.
Summary: Baka Brahma believes that his current existence is eternal. The Buddha explains how this belief developed in Brahma and then shares a story of how Brahma achieved his present glory through good deeds performed in the past.
.
While the Buddha was staying in Jetavana, the monks were talking about a powerful brahma named Baka. Baka believed a wrong idea. He believed that the world he lived in was eternal, unchanging, and permanent, and that there was no other place of salvation beyond it. He thought everything stayed the same forever.
In one of his past lives, Baka had practiced meditation. Because of this, he was reborn in very high heavenly realms. First he lived for five hundred world ages in the Vehapphala heaven. After that he lived sixty-four world ages in the Subhakinna heaven. After that, he lived eight world ages in the Abhassara heaven. It was in this last heavenly world that the wrong idea appeared in him. He forgot his past lives and did not remember that he had been reborn again and again. Because he could not see the truth, he believed his present heaven was eternal.
The Buddha knew what Baka was thinking. Instantly, the Buddha disappeared from Jetavana and appeared in Baka’s heavenly world.
When Baka saw the Buddha, he greeted him warmly and said, “Welcome, Lord. It has been a long time since you came here. This world is eternal, permanent, unchanging. Nothing is born here, nothing dies here. There is no other world beyond this one. This is the highest place, and there is no other salvation outside of it.”
The Buddha replied, “Baka has fallen into ignorance. He believes something is permanent when it is not. He says there is no other salvation when there truly is.”
Baka realized the Buddha understood his mistaken ideas completely. Feeling pressured, like a frightened thief who tries to share blame with others, Baka tried to show that other powerful gods agreed with him. He claimed there were many brahmas who believed the same view.
The Buddha answered calmly and explained that Baka’s heavenly life was actually very short compared to the great age of the world. He told Baka that he knew all of Baka’s past existences, even those far in the past.
Baka then asked the Buddha to tell him something meaningful.
The Buddha reminded Baka of good deeds he had done long ago in previous lives—things Baka himself had forgotten. He reminded him of times when Baka had helped people, saved them, or freed them. The Buddha also reminded Baka that in one past life, the Buddha had been Baka’s disciple named Kappa.
When Baka heard these forgotten deeds repeated to him by the Buddha, he realized that the Buddha truly knew all his past lives. Baka saw how limited his own knowledge was. He bowed to the Buddha and praised him.
The Buddha taught the truth about impermanence and the true path to liberation. At the end of the teaching, ten thousand brahmas understood the truth and freed their minds from attachment.
After helping them, the Buddha returned from the Brahma world to Jetavana and explained that in that past life, Baka had been the ascetic Kesava, and the disciple Kappa had been the Buddha himself.
.... o ....
J406. Gandhara Jātaka -- Dù có ai phật ý, nếu ta nói vì thiện , thì ta cũng không mắc tội.
Tóm tắt: Khi các nhà sư tích trữ thuốc men và bị cư sĩ chỉ trích, Đức Phật kể một câu chuyện về hai vị vua từ bỏ vương quốc để trở thành nhà khổ hạnh. Trong câu chuyện, khi một vị vua phạm một lỗi nhỏ và được vị vua kia sửa sai, vị vua được sửa sai đã nhận vị vua kia làm thầy của mình.
.
Một ngày nọ, khi Đức Phật còn tại Jetavana, một quy định về việc cất giữ thuốc men đã được đặt ra. Vấn đề này đã bắt đầu từ trước đó tại thành Rajagaha.
Một vị sư tên là Pilindiyavaccha đã đến cung điện của nhà vua để giúp giải thoát gia đình một người giữ vườn. Sử dụng thần thông, ngài khiến cả cung điện trông như được làm bằng vàng. Dân chúng vô cùng kinh ngạc và vui mừng, và họ mang đến cho ngài năm loại thuốc mà các nhà sư thường dùng. Pilindiyavaccha đã phân phát tất cả thuốc men cho toàn thể tăng chúng.
Vì vậy, các nhà sư bỗng nhiên có nhiều thuốc hơn mức cần thiết. Nhiều nhà sư bắt đầu chất đầy thuốc men vào các bình, lọ và túi và cất giữ. Dân chúng trong thành phố thấy vậy đã phàn nàn: “Các nhà sư này thật tham lam. Họ tích trữ thuốc men trong phòng của mình!”
Khi Đức Phật nghe được chuyện này, ngài đã đặt ra một quy định: bất kỳ loại thuốc nào được ban cho các nhà sư phải được sử dụng trong vòng bảy ngày. Ngài nói thêm: “Ngay cả những bậc hiền triết từ xa xưa, những người chỉ giữ năm giới cơ bản, cũng sẽ chỉ trích bất cứ ai tích trữ muối hay đường cho ngày hôm sau. Nhưng các ngươi, những người sống trên con đường dẫn đến giải thoát, lại tích trữ đồ đạc cho nhiều ngày.”
Rồi Ngài kể một câu chuyện từ rất lâu rồi.
Ngày xưa, Bồ Tát sinh ra làm hoàng tử của vương quốc Gandhara. Khi cha ngài băng hà, ngài lên ngôi vua và cai trị bằng sự công bằng và lòng tốt.
Cùng thời gian đó, tại vương quốc Videha, một vị vua khác trị vì. Tên của vị vua này là Vua Videha. Hai vị vua này chưa từng gặp nhau, nhưng họ là bạn tốt và tin tưởng lẫn nhau sâu sắc.
Người dân thời đó sống rất thọ — lên đến ba mươi ngàn năm.
Vào một ngày trăng tròn trong một buổi lễ tôn giáo, Vua Gandhara đã thảo luận về đạo đức với các quan đại thần của mình thì mặt trăng đột nhiên bị che khuất bởi thần Rahu. Các quan đại thần đã cảnh báo nhà vua về hiện tượng này, khiến nhà vua phải suy ngẫm về những hàm ý của nó. Ngài suy ngẫm về những yếu tố bên ngoài, như Rahu che khuất ánh trăng, có thể tương tự như gánh nặng của bổn phận hoàng gia đang che khuất bản ngã bên trong của ngài.
Quyết tâm không để cuộc đời mình trở nên u ám, ngài quyết định từ bỏ vương quốc và theo đuổi cuộc sống khổ hạnh. Sau đó, ngài giao lại vương quốc cho các quan đại thần và lên đường đến dãy Himalaya, nơi ngài chuyên tâm thiền định và đạt được những khả năng tâm linh sâu sắc.
Tại Videha, vua Videha hỏi một số thương gia về người bạn của mình. Họ nói với ngài rằng vua Gandhara đã từ bỏ tất cả để trở thành một nhà khổ hạnh.
Nghe vậy, vua Videha nghĩ: "Nếu bạn ta đã thấy được giá trị của đời sống thánh thiện, thì ta còn làm gì để cai trị một vương quốc?"
Ngài thậm chí không nghĩ đến con cái của mình. Ngài từ bỏ vương quốc rộng lớn và của cải vật chất để lên dãy Himalaya. Ở đó, ngài sống lặng lẽ, chỉ ăn trái cây.
Hai vị ẩn sĩ gặp nhau trong rừng nhưng không nhận ra nhau. Tuy nhiên, họ vẫn trở thành bạn bè và sống hòa thuận với nhau. Vị ẩn sĩ Videha hầu hạ vị ẩn sĩ Gandhara mà không biết rằng vị ẩn sĩ này đang hầu hạ người bạn cũ của mình.
Một đêm trăng tròn, mặt trăng lại bị Rahu che khuất. Vị ẩn sĩ Videha hỏi: "Thưa Ngài, tại sao mặt trăng lại tối?"
Bồ Tát kể lại việc ngài đã chứng kiến sự kiện tương tự này nhiều năm trước và nó đã thôi thúc ngài rời bỏ vương quốc như thế nào.
Videha sau đó nhận ra mình đang nói chuyện với ai và tiết lộ danh tính của mình. Từ khoảnh khắc đó, họ trở nên thân thiết hơn.
Sau nhiều năm, họ đến một ngôi làng gần biên giới để xin muối và giấm. Dân làng kính trọng họ và dựng lều cho họ.
Có ngày dân làng cúng dường thức ăn có muối. Có ngày họ cúng dường thức ăn không có muối. Có ngày họ cúng dường quá nhiều muối. Vì vậy, vị ẩn sĩ Videha đã cất giữ số muối còn lại trong một chiếc giỏ lá, nghĩ rằng: "Ta sẽ giữ số muối này cho đến ngày dân làng không cho muối nữa."
Sau đó, khi đến ngày không có muối, ông lấy số muối đã cất giữ ra. Bồ Tát hỏi: "Hôm nay ngươi lấy muối ở đâu ra vậy?"
Videha giải thích.
Bồ Tát nhẹ nhàng trách mắng: "Ngươi đã từ bỏ vương quốc rộng 300 dặm để thoát khỏi ràng buộc, vậy mà ngươi lại cất giữ muối cho riêng mình sao?"
Videha nổi giận và đáp: "Ngươi cũng đã từ bỏ vương quốc của mình và nói rằng sẽ không khiển trách người khác mà sẽ tự rèn luyện bản thân. Tại sao bây giờ ngươi lại sửa ta?"
Bồ Tát bình tĩnh đáp: "Ta chỉ nói những điều đúng đắn. Khi người ta nói một cách chính trực, sẽ không có gì đáng trách."
Videha nói: "Dù lời nói có đúng đắn, người ta cũng không nên nói theo cách làm tổn thương người khác."
Nhưng Bồ Tát đáp: "Dù có ai phật ý, nếu ta nói vì thiện, thì ta cũng không mắc tội."
Ngài giải thích rằng, cũng như người thợ gốm chỉ giữ lại những chiếc bình nung tốt và bỏ đi những chiếc bình đất sét mềm, người thợ gốm sẽ tiếp tục sửa chữa người khác để họ có thể trở nên cứng cáp và tốt đẹp hơn.
Nghe vậy, vị ẩn sĩ Videha đã hiểu ra. Ông xin lỗi và xin Bồ Tát tiếp tục chỉ dạy. Bồ Tát đã tha thứ cho ông.
Họ trở về dãy Himalaya. Ở đó, Bồ Tát đã dạy ông thiền định sâu hơn. Cuối cùng, vị ẩn sĩ Videha đã đạt được thần thông cao hơn. Cả hai tiếp tục thực hành thiền định và được tái sinh vào cõi Phạm Thiên.
Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, Ngài nói với các nhà sư: "Lúc bấy giờ, ẩn sĩ Videha là Ananda. Vua xứ Gandhara là ta."
.... o ....
J406. Gandhara Jātaka -- Even if someone is offended, if I speak for the sake of goodness, no sin falls on me.
Summary: When monks accumulate medicines and are criticized by the laypeople, the Buddha shares a story about two kings who renounced their kingdoms to become ascetics. In the story, when one king made a minor mistake and the other corrected him, the one who was corrected accepted the other as his teacher.
.
One day, while the Buddha was living at Jetavana, a rule had to be made about storing medicines. The problem had started earlier in the city of Rajagaha.
A monk named Pilindiyavaccha once went to the king’s palace to help free the family of a park-keeper. Using his magic power, he made the whole palace appear as if it were made of gold. The people were amazed and delighted, and they brought him the five types of medicines used by monks. Pilindiyavaccha gave all the medicines to the whole community of monks.
Because of this, the monks suddenly had more medicines than they needed. Many monks began filling pots, jars, and bags with the extra medicines and kept them stored away. People in the city saw this and complained, “These monks are greedy. They are hoarding medicines in their rooms!”
When the Buddha heard about this, he created a rule: any medicine given to monks must be used within seven days. He then added, “Even wise men from long ago who kept only the basic five precepts would criticize anyone who even stored salt or sugar for the next day. But you, who live by a path leading to liberation, are storing things for many days.”
Then he told a story from long ago.
Long ago, the Bodhisatta was born as the prince of the Gandhara kingdom. When his father died, he became king and ruled with fairness and goodness.
During the same time, in the kingdom of Videha, another king ruled. His name was King Videha. These two kings had never seen each other, but they were good friends and trusted each other deeply.
People in those times lived very long lives — up to thirty thousand years.
On a full moon day during a religious observance, the King of Gandhara discussed righteousness with his ministers when the moon was suddenly obscured by the celestial being Rahu. The ministers alerted the king to the phenomenon, prompting him to reflect on the implications. He considered how external factors, like Rahu blocking the moon's light, can analogous to the burdens of his royal duties that overshadow his inner self. Determined to prevent his life from becoming darkened, he decided to renounce his kingdom and pursue a life of asceticism. Subsequently, he entrusted his kingdom to his ministers and journeyed to the Himalayas, where he dedicated himself to meditation and attained profound spiritual abilities.
In Videha, King Videha asked some merchants about his friend. They told him the King of Gandhara had given up everything to become an ascetic.
Hearing this, King Videha thought: “If my friend has seen the value of the holy life, what am I doing ruling a kingdom?”
He did not even think about his sons or daughters. He gave up his vast kingdom and his great wealth and went to the Himalayas. There he lived quietly, eating only fruits.
The two ascetics met each other in the forest but did not recognize who the other was. Still, they became friends and lived peacefully together. The Videha ascetic served the Gandhara ascetic, not knowing he was serving his old friend.
One full moon night, the moon was again covered by Rahu. The Videha ascetic asked, “Master, why is the moon dark?”
The Bodhisatta explained how he had seen this same event years ago and how it inspired him to leave his kingdom.
The Videha ascetic then realized who he was speaking to and revealed his own identity. From that moment they became even closer friends.
After many years, they went to a village near the border to get salt and vinegar. The villagers respected them and built shelters for them.
Some days the villagers gave food with salt. Other days, they gave food without any. One day they gave too much salt. So the Videha ascetic saved the extra salt in a leaf basket, thinking: “I will keep this for a day when the villagers do not give salt.”
Later, when a saltless day came, he took out the stored salt. The Bodhisatta asked, “Where did you get salt today?”
The Videha ascetic explained.
The Bodhisatta scolded him gently: “You left a kingdom of 300 leagues to become free of attachments, and yet you are storing salt for yourself?”
Videha became upset and replied, “You also gave up your kingdom and said you would not admonish others but train yourself. Why are you now correcting me?”
The Bodhisatta answered calmly, “I speak only what is right. When one speaks with righteousness, no blame comes from it.”
The Videha ascetic then said, “Even if the words are correct, one should not speak in a way that hurts another.”
But the Bodhisatta replied, “Even if someone is offended, if I speak for the sake of goodness, no sin falls on me.”
He explained that just as a potter only keeps well-baked pots and discards the soft clay ones, he would continue to correct others so that they might become strong and good.
Hearing this, the Videha ascetic understood. He apologized and asked the Bodhisatta to continue guiding him. The Bodhisatta forgave him.
They returned to the Himalayas. There, the Bodhisatta taught him deeper meditation. The Videha ascetic eventually gained higher spiritual powers. Both continued practicing meditation and were reborn in a Brahma world.
When the Buddha finished the story, he told the monks: “At that time, the Videha ascetic was Ananda. The King of Gandhara was myself.”
.... o ....
J407. Mahakapi Jātaka -- Một nhà lãnh đạo chân chính sẽ ưu tiên hạnh phúc và sự an toàn dân, ngay cả khi phải mạo hiểm mạng sống của mình.
Tóm tắt: Người Sākiya lừa vua Kosala bằng cách gả con gái của một nữ tỳ làm hoàng hậu. Khi con trai họ biết được sự thật, chàng quyết tâm tiêu diệt cả bộ tộc. Sau đó, Đức Phật kể một câu chuyện về một vị vua khỉ cao quý đã hy sinh mạng sống để bảo vệ đàn khỉ của mình.
.
Một ngày nọ, khi Đức Phật đang ngự tại Kỳ Viên, các vị sư đang trò chuyện với nhau trong Chánh Pháp Đường. Họ nói: “Đức Phật luôn làm việc thiện cho thân quyến.”
Đức Phật hỏi họ đang bàn luận điều gì. Khi họ giải thích, Ngài nói: “Đây không phải lần đầu tiên một vị Phật giúp đỡ thân quyến bằng lòng tốt.”
Rồi Ngài kể câu chuyện từ quá khứ.
Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Benares, Bồ-tát sinh ra là một con khỉ. Khi lớn lên, Ngài trở nên mạnh mẽ, thông thái và là một vị lãnh đạo bẩm sinh. Ngài sống trên dãy Hy Mã Lạp Sơn và là vua của một đàn khỉ tám mươi ngàn con.
Gần sông Hằng có một cây xoài khổng lồ (có người nói đó là cây đa). Cành cây xòe rộng, lá dày, che bóng mát. Cây có những quả ngọt, thơm, to như những chiếc bình. Một số quả rơi xuống đất, một số rơi xuống sông, và một số rơi trên thân cây.
Vua Khỉ thưởng thức những quả này cùng với bầy khỉ của mình, nhưng Ngài cũng rất thận trọng. Ông nghĩ: "Một ngày nào đó, biết đâu một quả nào đó sẽ rơi xuống sông, trôi theo dòng nước, gây nguy hiểm cho chúng ta. Người ta có thể lần theo nó trở lại cây này và làm hại chúng ta."
Vì vậy, ông sai lũ khỉ gỡ hết hoa và quả non mọc trên mặt nước. Nhưng có một quả vẫn ẩn sau tổ kiến. Khi chín, nó rơi xuống sông mà không ai hay biết.
Quả trôi theo dòng nước và rơi vào lưới đánh cá giăng trên đầu vua Brahmadatta, người đang tắm dưới sông. Những người đánh cá tìm thấy quả và mang về cho nhà vua. Không ai biết đó là quả gì.
Những người thợ rừng được gọi đến, và họ nói đó là một quả xoài.
Nhà vua nếm thử một miếng và rất thích vị ngọt của nó. Ông chia sẻ nó với các hoàng hậu và các quan đại thần. Hương vị của nó khiến ông ấn tượng đến mức muốn ăn thêm. Ông hỏi những người thợ rừng xem cây đó ở đâu, và khi biết nó mọc trên dãy Himalaya, ông đã ra lệnh buộc nhiều bè lại với nhau. Ông chèo thuyền ngược dòng trong nhiều ngày cho đến khi đến nơi.
Những người thợ rừng chỉ cho ông cây xoài. Nhà vua cắm trại dưới gốc cây, ăn thêm xoài và đặt lính canh gác xung quanh.
Nửa đêm, Vua Khỉ cùng tám vạn con khỉ đến ăn quả chín. Nhà vua tỉnh dậy và nhìn thấy chúng.
Ngài hét lên với các cung thủ: "Bao vây cây để lũ khỉ không thể trốn thoát. Bắn chúng đi. Ngày mai chúng ta sẽ ăn xoài và thịt khỉ!"
Các cung thủ vây quanh cây với cung tên sẵn sàng.
Lũ khỉ hoảng sợ chạy đến chỗ vua. Chúng run rẩy nói: "Bệ hạ, chúng thần bị mắc kẹt rồi. Chúng thần sẽ bị bắn. Chúng thần có thể làm gì?"
Vua Khỉ nói: "Đừng sợ. Ta sẽ cứu các ngươi."
Ngài trèo lên cành cây cao nhất và nhìn về phía bờ sông. Ngài nhảy qua một khoảng cách rất xa - khoảng một trăm độ dài cung - và đáp xuống một bụi cây bên bờ bên kia. Ngài kiểm tra lại khoảng cách mình đã nhảy.
Sau đó, Vua Khỉ chặt một chồi tre, đo chiều dài cần thiết, rồi buộc một đầu vào thân cây trên bờ, đầu còn lại quấn quanh eo mình. Nhưng anh quên đếm chiều dài dây tre quấn quanh người mình.
Vua Khỉ chạy rồi lại nhảy để quay lại cây xoài. Do đo sai, sợi dây tre quá ngắn. Nó không với tới được cành cây. Nó nắm lấy nó bằng cả hai tay và treo mình lên đó, căng ra giữa cành cây và cây tre.
Treo mình đau đớn, Vua Khỉ hét lên với đàn khỉ: "Đi ngay! Hãy đạp trên lưng ta mà chạy và trốn thoát đến nơi an toàn!"
Từng con một, tất cả tám mươi ngàn con khỉ đều trèo xuống, vượt qua lưng Vua Khỉ và đến được bờ sông an toàn. Mọi con khỉ đều cúi chào Vua Khỉ khi chúng đi qua.
Trong số đó có Đề Bà Đạt Đa, kiếp trước cũng là một con khỉ. Muốn làm hại Vua Khỉ , nó nhảy mạnh xuống lưng Bồ Tát. Vua Khỉ bị đạp đến mức tim tan nát, và nó đau đớn tột cùng.
Vua Brahmadatta đã chứng kiến mọi chuyện ngay từ đầu. Ngài đã chứng kiến Vua Khỉ hy sinh thân mình nối cầu dây tre để cứu cả đàn khỉ. Nhà vua nghĩ: "Con vật cao quý này đã hy sinh mạng sống để cứu những người theo mình. Nó không nên chết trong đau đớn. Ta sẽ chăm sóc nó."
Nhà vua cho dựng một cái bục, nhẹ nhàng đưa Vua Khỉ xuống và chăm sóc ông rất chu đáo. Ông tắm rửa cho Vua Khỉ , cho anh uống nước ngọt, xức dầu thơm và đặt anh nằm trên một chiếc giường êm ái.
Nhà vua hỏi Vua Khỉ : "Tại sao ngươi lại liều mạng vì bầy khỉ? Chúng là gì của ngươi?"
Vua Khỉ trả lời một cách tử tế, dạy vị vua loài người về sự lãnh đạo, trách nhiệm và lòng trắc ẩn. Anh nói rằng một nhà lãnh đạo thực sự phải quan tâm đến hạnh phúc và sự an toàn của những người dưới quyền, ngay cả khi phải trả giá bằng mạng sống của chính mình.
Sau khi dạy như vậy, Vua Khỉ từ trần.
Nhà vua vô cùng xúc động. Ngài ra lệnh tổ chức một tang lễ hoàng gia cho Vua Khỉ . Ngài nói với các quan đại thần: "Hãy đối xử với Vua Khỉ như đối xử với một vị vua loài người."
Nhà vua ra lệnh dựng một giàn hỏa táng lớn bằng một trăm xe gỗ. Ngài mời các cung nữ đến dự tang lễ. Họ đến với mái tóc xõa, y phục đỏ và đuốc, đúng như phong tục tang lễ.
Sau lễ hỏa táng, nhà vua cho dát vàng lên sọ khỉ và đặt ở cổng thành. Trong bảy ngày, thành phố được trang hoàng lộng lẫy, và người dân dâng hương hoa tưởng nhớ Vua Khỉ .
Sau đó, nhà vua xây dựng một ngôi đền thờ xá lợi và tiếp tục tôn kính nó cho đến hết đời. Được truyền cảm hứng từ lời dạy của Vua Khỉ , nhà vua đã trị vì công bằng và làm nhiều việc thiện.
Sau khi kể câu chuyện, Đức Phật giải thích rằng Vua Benares chính là Ananda trong kiếp trước, đàn khỉ chính là chúng hội chư tăng hiện tại của Đức Phật, và Vua Khỉ - người đã hy sinh mạng sống của mình vì chúng sinh - chính là Đức Phật.
.... o ....
J407. Mahakapi Jātaka -- A true leader prioritizes the happiness and safety of those under their care, even if it means risking their own life.
Summary: The Sākiyans trick the king of Kosala by sending him the daughter of a slave girl as his new queen. When their son learns the truth, he resolves to destroy the clan. Afterwards, the Buddha shares a story about a noble monkey-king who sacrificed his life to protect his troop.
.
One day, while the Buddha was living at Jetavana, the monks were talking together in the Hall of Truth. They said, “The Buddha always does good deeds for his relatives.”
The Buddha asked what they were discussing. When they explained, he said, “This is not the first time a Buddha has helped his relatives with kindness.”
Then he told this story from the past.
Long ago, when King Brahmadatta ruled in Benares, the Bodhisatta was born as a monkey. When he grew up, he became strong, wise, and a natural leader. He lived in the Himalayas and was the king of a troop of eighty thousand monkeys.
Near the river Ganges there was a huge mango tree (some say it was a banyan tree). Its branches spread wide, and its leaves were thick, giving deep shade. The tree had sweet, fragrant fruits as large as jars. Some fruit fell on the ground, some fell into the river, and some fell on the trunk of the tree.
The Monkey King enjoyed these fruits with his monkeys, but he was also cautious. He thought: “Someday one fruit might fall into the river, float downstream, and bring danger to us. People may follow it back to this tree and harm us.”
So he made the monkeys remove all blossoms and young fruits that grew over the water. But one fruit remained hidden behind an ant nest. When it ripened, it fell into the river unnoticed.
The fruit floated downstream and landed in a fishing net stretched above King Brahmadatta, who was bathing in the river. The fishermen found the fruit and brought it to the king. No one knew what it was.
Foresters were called, and they said it was a mango.
The king tasted a piece and loved its sweetness. He shared it with his royal wives and ministers. The flavor impressed him so much that he wanted more. He asked the foresters where the tree was, and when he learned it grew in the Himalayas, he ordered many rafts to be tied together. He sailed upstream for several days until he reached the place.
The foresters pointed out the tree. The king camped beneath it, ate more mangoes, and put guards around the area.
At midnight, the Monkey King and his eighty thousand monkeys came to eat the ripe fruits. The king awoke and saw them.
He shouted to his archers: “Surround the tree so the monkeys cannot escape. Shoot them. Tomorrow we will eat mangoes and monkey meat!”
The archers surrounded the tree with bows ready.
The monkeys panicked and ran to their king. They said, trembling, “Sire, we are trapped. We will be shot. What can we do?”
The Monkey King said, “Do not be afraid. I will save you.”
He climbed up the tallest branch and looked toward the riverbank. He leapt across a huge distance—about one hundred bow-lengths—and landed in a bush on the opposite bank. He checked the distance he had jumped.
Then he cut down a bamboo shoot, measured how long it needed to be, and tied one end to a tree on the bank and the other end around his own waist. But he forgot to count the length that wrapped around his body.
He ran and jumped again to cross back toward the mango tree. Because of the mistake in his measurement, the bamboo rope was too short. He could not reach the branch. He grabbed it with both hands and hung there, stretched between the branch and the bamboo.
Hanging there painfully, he shouted to his troop: “Go now! Cross over my back and escape to safety!”
One by one, all eighty thousand monkeys climbed down, crossed over his back, and reached the safety of the riverbank. Every monkey bowed to him as they passed.
Among them was Devadatta, who in that life was also a monkey. Wanting to harm the Monkey King, he leapt down hard on the Bodhisatta’s back. The Monkey King’s heart broke from the blow, and he was left in great pain.
King Brahmadatta had seen everything from the start. He watched how the Monkey King sacrificed himself to save his whole troop. The king thought:
“This noble animal gave up his life to save his followers. He should not die in suffering. I will take care of him.”
He had a platform built, gently brought the Monkey King down, and treated him with great care. He washed him, gave him sweet water, anointed him with fine oils, and laid him on a soft bed.
Then the king asked him: “Why did you risk your life for your monkeys? What are they to you?”
The Monkey King answered kindly, teaching the human king about leadership, responsibility, and compassion. He said that a true leader must care for the happiness and safety of those under him, even at the cost of his own life.
After giving this teaching, the Monkey King passed away.
The king was deeply moved. He ordered a royal funeral for the Monkey King. He told his ministers: “Treat him as you would treat a human king.”
He ordered a great funeral pyre built with a hundred wagonloads of wood. He invited the royal women to attend the ceremony. They came with loose hair, red garments, and torches, as was the custom for mourning.
After the cremation, the king had the monkey’s skull decorated with gold and placed at the city gate. For seven days the city was decorated, and the people honored the Monkey King with incense and flowers.
Later, he built a shrine for the relic and continued to honor it for the rest of his life. Inspired by the Monkey King’s teaching, he ruled justly and performed many good deeds.
After telling the story, the Buddha explained that the King of Benares was Ananda in a past life, the troop of monkeys was the Buddha’s current assembly of monks, and the Monkey King—the one who gave his life for others—was the Buddha himself.
.... o ....
J408. Kumbhakara Jātaka -- Những người bám víu vào thú vui thân xàc sẽ phải chịu đau khổ.
Tóm tắt: Một số nhà sư nuôi dưỡng những niệm bất thiện. Đức Phật kể một câu chuyện về bốn vị vua, sau khi giải mã một số điềm báo, đã từ bỏ vương quốc và trở thành bốn vị Phật Độc Giác. Câu chuyện cũng kể về một người thợ gốm đã tiếp đãi họ, vợ ông xuất gia, và sau khi nuôi dạy con cái, ông cũng xuất gia.
.
Đức Phật kể câu chuyện này khi đang ở tại Kỳ Viên. Ngài nói về sự nguy hiểm của việc để những tội lỗi nhỏ phát triển.
Một đêm nọ tại Savatthi, năm trăm vị tỳ kheo đang trú tại Kim Các Đường. Nửa đêm, những ý nghĩ dâm dục khởi lên trong tâm họ. Đức Phật luôn trông chừng các đệ tử sáu lần mỗi ngày—ba lần vào ban ngày và ba lần vào ban đêm—giống như người mẹ bảo vệ đứa con trai duy nhất của mình hay như người chột mắt bảo vệ con mắt tốt duy nhất của mình.
Đêm đó, Đức Phật thấy những tà niệm của các vị tỳ kheo. Ngài nghĩ: "Nếu các niệm này phát triển, họ sẽ mất cơ hội giác ngộ. Ta phải ngăn chặn điều này ngay lập tức." Vì vậy, Ngài rời khỏi phòng hương, gọi Ananda đến và bảo ông tập hợp tất cả các vị tỳ kheo. Khi họ đến nơi, Đức Phật ngồi xuống và nói: "Này các tỳ kheo, thật nguy hiểm khi để những ý nghĩ tội lỗi lấn át. Ngay cả một tội lỗi nhỏ cũng có thể phát triển và gây ra tai hại lớn. Những bậc hiền trí trong quá khứ đã sửa chữa ngay cả những lỗi lầm nhỏ, và nhờ đó, họ đã đạt đến cảnh giới Độc Giác Phật (Paccekabuddhas). Để ta kể cho các ngươi một câu chuyện."
Chuyện Xưa
Ngày xửa ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Benares, Bồ Tát sinh ra trong một gia đình thợ gốm. Ngài lớn lên, kết hôn và nuôi vợ con bằng nghề làm gốm.
Bấy giờ, có bốn vị vua ở các vương quốc khác nhau, mỗi vị đều trở thành Độc Giác Phật sau khi chứng kiến một điều gì đó trong cuộc sống hàng ngày dạy cho họ một bài học quan trọng.
1. Vua Karandu xứ Kalinga
Một ngày nọ, vị vua này đi đến vườn của mình. Bên ngoài cổng có một cây xoài chín mọng, trái ngọt. Nhà vua hái một quả xoài khi vẫn đang ngồi trên lưng voi. Sau đó, các quan đại thần và những người khác cũng hái quả từ cùng một cây. Cuối cùng, người ta trèo lên cây, dùng gậy đập vỡ cành cây và ăn hết quả, kể cả những quả chưa chín.
Chiều đến, nhà vua lại đi ngang qua. Cây đã bị đốn hạ—gãy nát và trơ trụi. Gần đó có một cây xoài khác không có quả, nhưng trông rất đẹp và nguyên vẹn.
Nhà vua nghĩ: “Cây có quả bị hại vì quả của nó. Cây không quả thì an toàn. Đời sống của người tại gia cũng giống như cây có quả – đầy rẫy hiểm nguy. Đời sống đơn sơ, tu hành cũng giống như cây không quả – an toàn và bình yên. Ta nên giống như cây cằn cỗi.”
Suy nghĩ sâu sắc về điều này, ngài đột nhiên giác ngộ và trở thành một vị Độc Giác Phật.
2. Vua Naggaji xứ Gandhāra
Vị vua này đang quan sát một người phụ nữ xay nước hoa. Bà đeo một chiếc vòng ở mỗi cổ tay. Khi đeo riêng một chiếc vòng, nó không phát ra tiếng động. Nhưng khi bà đeo thêm một chiếc vòng nữa vào cùng một cánh tay, hai chiếc vòng cọ vào nhau và phát ra tiếng động.
Nhà vua nhận ra: “Khi người ta sống một mình, không có xung đột. Khi hai người hoặc nhiều người ở cùng nhau, họ thường xung đột. Ta cai trị hai vương quốc; ta nên sống như chiếc vòng duy nhất – yên tĩnh và bình yên.”
Nhờ quán chiếu này, ngài đã trở thành một vị Độc Giác Phật.
3. Vua Nimi xứ Videha
Vị vua này đang nhìn ra cửa sổ. Ngài thấy một con diều hâu đang tha một miếng thịt. Nhiều con chim khác lao vào tấn công con diều hâu, cố gắng cướp miếng thịt. Con diều hâu thả miếng thịt xuống để cứu mạng nó. Một con chim khác nhặt miếng thịt lên, và những con chim khác cũng lao vào tấn công con diều hâu đó.
Nhà vua nhận ra: “Ai giữ miếng thịt thì khổ; ai buông bỏ thì được tự do. Dục lạc cũng giống như vậy. Ai bám víu vào chúng thì khổ.”
Với sự hiểu biết này, ngài trở thành một vị Độc Giác Phật.
4. Vua Dummukha xứ Uttarapancala
Vị vua này thấy những con bò đực được thả ra khỏi chuồng. Tất cả chúng đều đuổi theo một con bò cái. Một con bò đực khỏe mạnh, vì ghen tị và ham muốn, đã dùng cặp sừng sắc nhọn của mình tấn công một con bò đực khác, giết chết nó.
Nhà vua nghĩ: “Ngay cả động vật cũng khổ vì tham dục. Con người cũng khổ vì tham dục. Ta nên từ bỏ nó.”
Ngài cũng trở thành một vị Độc Giác Phật.
Một ngày nọ, bốn vị Độc Giác Phật từ trên núi xuống khất thực. Họ bay trên không trung và đến gần Benares. Họ vào vùng ngoại ô khất thực và dừng lại trước nhà Bồ-tát.
Bồ-tát nồng nhiệt chào đón họ, dâng nước uống và thức ăn, rồi hỏi từng vị: “Diện mạo các vị an lạc. Giác quan các vị thanh tịnh. Điều gì khiến các vị chọn đời sống tu hành?”
Mỗi vị kể lại sự kiện đã đánh thức ngài—cây xoài bị phá hủy, những chiếc vòng đeo tay phát ra tiếng động, những con chim đang đánh nhau, và con bò đực bị giết bởi dục vọng.
Bồ-tát lắng nghe và vô cùng xúc động. Ngài quyết định rằng mình cũng muốn từ bỏ cuộc sống gia chủ.
Sau khi các vị Độc Giác Phật rời đi, ngài nói với vợ: “Bốn vị vua này đã từ bỏ vương quốc của họ để sống tự do và không ràng buộc. Ta kiếm sống bằng nỗ lực. Cuộc sống gia chủ có ích gì cho ta? Nàng hãy ở lại với con cái và chăm sóc ngôi nhà.”
Nhưng người vợ đáp: "Kể từ khi nghe lời dạy của họ, em cũng chẳng còn muốn ở lại nhà nữa."
Rồi giả vờ đi lấy nước, nàng rời khỏi nhà, đến gặp một nhóm tu sĩ khổ hạnh và xuất gia trước.
Bồ Tát đợi người vợ, nhưng nàng không bao giờ trở về. Vì vậy, ngài tự mình nuôi nấng các con. Khi chúng lớn lên và hiểu biết, ngài quyết định đã đến lúc mình cũng nên xuất gia. Ngài trao các con cho họ hàng rồi rời khỏi nhà.
Một ngày nọ, vợ ngài nhìn thấy ngài đang khất thực ở Benares. Người vợ nói: "Hình như ngài đã bỏ rơi các con."
Nhưng Bồ Tát đáp: "Ta không bỏ rơi chúng. Ta đợi cho đến khi chúng tự hiểu được. Chính nàng đã bỏ đi trước và không quan tâm đến chúng."
Nói xong, họ chia tay nhau và không bao giờ gặp lại. Về sau, Bồ Tát đạt được trí tuệ cao siêu và được tái sinh vào cõi Phạm Thiên.
Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, ngài giảng giải Tứ Diệu Đế. Năm trăm vị Tỳ kheo đã giác ngộ, chứng quả A la hán. Sau đó, Đức Phật tiết lộ danh tính: Cô con gái trong câu chuyện trở thành Uppalavanna; Người con trai trở thành Rahula; Người vợ trở thành mẹ của Rahula; Và người thợ gốm khổ hạnh chính là Đức Phật.
.... o ....
J408. Kumbhakara Jātaka -- Those who become attached to sensory pleasures experience suffering.
Summary: Some monks harbor misguided thoughts. The Buddha shares a story about four kings who, upon interpreting certain signs, renounced their kingdoms and became Paccekabuddhas. The tale also includes a potter who hosted them, his wife who ordained as a nun, and how, after raising his children, he too embraced ordination.
.
The Buddha told this story while staying in Jetavana. He spoke about the danger of letting small sins grow.
One night in Savatthi, five hundred monks were living in the Golden Pavement Hall. At midnight, lustful thoughts arose in their minds. The Buddha always watches over his disciples six times each day—three times in the daytime and three at night—just as a mother protects her only son or a one-eyed man protects his one good eye.
That night, the Buddha saw the monks’ wrong thoughts. He thought, “If this grows, they will lose their chance for enlightenment. I must stop this right now.” So he left his fragrant room, called Ananda, and told him to gather all the monks. When they arrived, the Buddha sat down and said: “Monks, it is dangerous to let sinful thoughts take over. Even a small sin can grow and cause great harm. Wise people of the past corrected even small faults, and because of that, they reached the level of paccekabuddhas (silent Buddhas). Let me tell you a story.”
The Old Story
Long ago, when King Brahmadatta ruled Benares, the Bodhisatta was born in a potter’s family. He grew up, married, and supported his wife and two children by making pottery.
At that time there were four kings in different kingdoms who each became paccekabuddhas after seeing something in their daily life that taught them an important lesson.
1. King Karandu of Kalinga
One day, this king went to his garden. Outside the gate stood a mango tree full of ripe, sweet fruit. The king picked one mango while still sitting on his elephant. Later, his ministers and others also took fruit from the same tree. Eventually, people climbed the tree, beat it with sticks, broke its branches, and ate every fruit, even the unripe ones.
In the evening, the king passed by again. The tree was destroyed—broken and empty. Nearby stood another mango tree that had no fruit, but it looked beautiful and untouched.
The king thought, “The tree with fruit was harmed because of its fruit. The tree with no fruit is safe. A householder’s life is like the fruitful tree—full of danger. A simple, religious life is like the fruitless tree—safe and peaceful. I should be like the barren tree.”
Thinking this deeply, he suddenly gained insight and became a paccekabuddha.
2. King Naggaji of Gandhāra
This king was watching a woman grinding perfume. She wore a bracelet on each wrist. When one bracelet was worn alone, it made no sound. But when she put a second bracelet on the same arm, the two rubbed against each other and made noise.
The king realized: “When people live alone, there is no conflict. When two or more are together, they often clash. I rule two kingdoms; I should live like the single bracelet—quiet and peaceful.”
Through this reflection, he became a paccekabuddha.
3. King Nimi of Videha
This king was looking out a window. He saw a hawk carrying a piece of meat. Many birds attacked the hawk, trying to steal the meat. The hawk dropped it to save its life. Another bird picked it up, and the others attacked that one too.
The king realized: “Whoever holds the meat suffers; whoever lets it go is free. Sense pleasures are just like that. Those who cling to them suffer.”
With this understanding, he became a paccekabuddha.
4. King Dummukha of Uttarapancala
This king saw bulls released from a pen. They all chased after a cow. One strong bull, out of jealousy and lust, attacked another bull with his sharp horns, killing him.
The king thought, “Even animals suffer because of lust. Humans also suffer from it. I should give it up.”
He too became a paccekabuddha.
One day, these four paccekabuddhas came down from their mountain home to seek alms. They flew through the air and arrived near Benares. They entered the suburb for alms and stopped at the Bodhisatta’s house.
The Bodhisatta welcomed them warmly, offered water and food, and asked each one:
“Your appearance is peaceful. Your senses are calm. What made you choose the religious life?”
Each explained the event that awakened him—the destroyed mango tree, the noisy bracelets, the fighting birds, and the bull killed by lust.
The Bodhisatta listened and was deeply moved. He decided that he, too, wanted to leave the householder’s life.
After the paccekabuddhas left, he told his wife: “These four kings left their kingdoms to live free and unattached. I earn my living with effort. What use is the householder’s life to me? You stay with the children and keep the house.”
But his wife replied, “Ever since I heard their teaching, I also feel no desire to stay in the house.”
Then, pretending to go fetch water, she left the house, went to a group of ascetics, and became ordained first.
The Bodhisatta waited for her, but she never returned. So he raised the children himself. When they grew older and could understand things, he decided it was time for him also to become an ascetic. He gave the children to relatives and left home.
One day, his wife saw him while begging in Benares. She said, “It seems you left the children behind.”
But the Bodhisatta replied, “I did not abandon them. I waited until they could understand for themselves. You left first and did not care for them.”
After speaking, they went their separate ways and never met again. The Bodhisatta later attained high spiritual knowledge and was reborn in the Brahma world.
When the Buddha finished the story, he explained the Four Noble Truths. Five hundred monks reached enlightenment. Then the Buddha revealed the identities: The daughter in the story became Uppalavanna; The son became Rahula; The wife became Rahula’s mother; And the potter-ascetic was the Buddha himself.
.... o ....
J409. Dalhadhamma Jātaka -- Thật sai lầm khi quý trọng người hầu khi họ còn trẻ và có năng lực, rồi bỏ rơi họ khi họ về già.
Tóm tắt: Một con voi già nua bị nhà vua bỏ rơi, mặc dù voi đã từng phục vụ nhà vua trong quá khứ. Cho đến khi Đức Phật kể lại chuyện này. Ngài kể một câu chuyện tương tự về một con voi chiến tranh sau này được giao nhiệm vụ kéo xe chở rác. Bồ Tát khuyên nhà vua hãy tôn trọng con voi và nhớ đến những giúp đỡ mà voi đã từng giúp đỡ.
.
Đức Phật đang sống trong rừng Ghosita gần Kosambi. Vào thời điểm đó, vua Udena có một con voi cái tên là Bhaddavatika. Khi còn trẻ, nhà vua rất yêu quý con voi này vì nó đã giúp đỡ vua rất nhiều. Nhà vua trang trí chuồng voi bằng nước hoa và vải vóc đầy màu sắc, thắp đèn cho nó, đặt hương xung quanh nó, cho nó ăn những món ăn đặc biệt và tôn vinh nó bằng nhiều đồ trang sức.
Nhưng sau này, khi Bhaddavatika già yếu và không còn khả năng làm việc nữa, nhà vua đã không còn tôn vinh nó nữa. Nó bị bỏ lại một mình, không được bảo vệ, sống trong rừng và chỉ sống bằng cách ăn trái cây khô. Nó buồn bã và bị bỏ rơi.
Một buổi sáng nọ, nó ra khỏi thành phố và thấy Đức Phật vào Kosambi khất thực, được các nhà sư vây quanh. Nó quỳ xuống dưới chân Ngài và khóc. Nó thưa: “Bạch Đức Thế Tôn, Ngài biết tất cả mọi điều. Khi con còn trẻ, Đức Vua Udena yêu thương và tôn vinh con vì con đã giúp đỡ ngài. Nhưng giờ đây, khi con đã già, ngài đã lấy đi tất cả. Con không còn được bảo vệ nữa. Xin hãy để ngài nhớ đến những điều tốt đẹp con đã làm và phục hồi danh dự cho con.”
Đức Phật nói: "Hãy đi ngay. Ta sẽ thưa với đức vua."
Ngài đến cung điện. Vua Udena chào đón và dâng thức ăn cho Đức Phật và các vị tăng. Sau bữa ăn, Đức Phật hỏi: "Thưa Đức Vua, Bhaddavatika đang ở đâu?"
Đức Vua trả lời: "Ta không biết."
Đức Phật nói: "Thưa Đức Vua, thật không đúng khi tôn vinh người hầu khi còn trẻ và có năng lực, rồi bỏ rơi họ khi về già. Một vị vua nên biết ơn. Bhaddavatika giờ đã già yếu, không được che chở, lại sống trong rừng ăn trái cây dại. Điều này không đúng. Hãy phục hồi lại danh dự cho nàng."
Sau đó, Đức Phật rời đi.
Vua Udena làm đúng như lời Đức Phật dặn. Câu chuyện lan truyền khắp kinh thành, và sau đó các vị tăng đã bàn tán về nó. Đức Phật đến và nói với họ: "Đây không phải là lần đầu tiên ta phục hồi lại danh dự cho nàng. Ta cũng đã từng giúp đỡ nàng trong quá khứ." Rồi Ngài kể một câu chuyện cũ.
Ngày xưa, vua Dalhadhamma trị vì ở Benares. Bấy giờ, Bồ Tát sinh ra trong một gia đình quan lại và trở thành cố vấn thân tín nhất của nhà vua.
Nhà vua sở hữu một con voi cái to lớn, khỏe mạnh và quý giá. Nó có thể đi được một trăm dặm trong một ngày. Nó mang tin tức cho nhà vua và chiến đấu dũng cảm trên chiến trường. Vì nó phục vụ nhà vua rất tốt, nhà vua rất tôn kính nó, giống như vua Udena đã làm với Bhaddavatika.
Nhưng khi con voi này già yếu, nhà vua tước bỏ mọi vinh dự của nó. Nó trở nên cô độc và sống bằng cách ăn cỏ trong rừng.
Một ngày nọ, nhà vua cần thêm bình đất sét và đã gọi một người thợ gốm đến. Người thợ gốm nói rằng ông không có bò để chở phân bò về làm việc. Nhà vua nói: "Hãy dùng con voi già này," và giao nó cho người thợ gốm kéo xe.
Sau đó, khi con voi nhìn thấy Bồ Tát đi vào thành phố, nó quỳ xuống dưới chân ngài và khóc. Bà thưa: “Bạch Đức Thế Tôn, khi con còn khỏe mạnh, vua đã tôn vinh con. Con đã chiến đấu và phục vụ ngài. Nhưng giờ đây, khi con đã già yếu, vua đã lấy đi tất cả. Giờ vua lại giao con cho một người thợ gốm kéo xe chở phân. Con không còn ai giúp đỡ. Xin đức vua hãy nhắc nhở con về những gì con đã làm và phục hồi danh dự cho con.”
Bồ Tát an ủi bà và hứa sẽ giúp đỡ. Ngài đến gặp vua và nói: “Thưa Đức Vua, Ngài còn nhớ con voi này đã chiến đấu trong các trận chiến và mang tin tức cho Ngài như thế nào không? Ngài đã tôn vinh nó. Nhưng giờ đây Ngài lại giao nó cho một người thợ gốm để kéo phân. Điều này có đúng không?”
Ngài giải thích với vua rằng con người phải biết ơn những việc làm tốt và sự phục vụ tận tụy. Khi con người quên đi lòng tốt, công việc của chính họ sẽ thất bại. Nhưng khi họ nhớ và đền đáp lại những việc làm tốt, công việc của họ sẽ thành công.
Nghe vậy, nhà vua cảm thấy xấu hổ. Ngài đã phục hồi tất cả danh dự cho con voi và đối xử tử tế với nó trở lại. Ngài cũng bố thí và làm nhiều việc thiện, được truyền cảm hứng từ lời dạy của Bồ Tát.
Sau khi kể câu chuyện, Đức Phật giải thích: Con voi cái già trong cả hai câu chuyện là Bhaddavatika; Vua Dalhadhamma là Ananda; và vị quan thông thái chính là Đức Phật.
.... o ....
J409. Dalhadhamma Jātaka -- It is wrong to honor a servant while they are young and capable, only to abandon them in their old age.
Summary: An elephant is old and has been ignored by the king, even though she has served him in the past. That is, until the Buddha tells him of it. He then tells a similar story from the past about a war elephant that was later put in charge of pulling a garbage cart. The Bodhisatta tells the king to respect the elephant and remember the help it has given in the past.
.
The Buddha was living in the Ghosita Forest near Kosambi. At that time, King Udena had a she-elephant named Bhaddavatika. In her youth, the king loved this elephant very much because she had helped him greatly. He decorated her stall with perfumes and colorful cloth, lit lamps for her, placed incense around her, gave her special food, and honored her with many ornaments.
But later, when Bhaddavatika grew old and could no longer work, the king stopped giving her honor. She was left alone, unprotected, living in the forest and surviving only by eating rough fruit. She was sad and abandoned.
One morning she went out of the city and saw the Buddha entering Kosambi for alms, surrounded by monks. She fell at his feet and cried. She said: “Lord, you know everything. When I was young, King Udena loved me and honored me because I helped him. But now that I am old, he has taken away everything. I have no protection. Please make him remember the good I have done and restore my honor.”
The Buddha said, “Go now. I will speak to the king.”
He went to the palace. King Udena welcomed him and offered food to the Buddha and the monks. After the meal, the Buddha asked: “O King, where is Bhaddavatika?”
The king replied, “I do not know.”
Then the Buddha said: “O King, it is not right to honor a servant when young and able, and then abandon them in old age. A king should be grateful. Bhaddavatika is now old, unprotected, and living in the forest eating wild fruit. This is not proper. Restore her previous honor.”
Then the Buddha left.
King Udena did exactly as the Buddha advised. The story spread throughout the city, and the monks later talked about it. The Buddha came and told them, “This is not the first time that I restored her honor. I helped her in the past as well.” Then he told an old story.
Long ago, King Dalhadhamma ruled in Benares. At that time, the Bodhisatta was born into a minister’s family and became the king’s most trusted advisor.
The king owned a great she-elephant, very strong and valuable. She could travel a hundred leagues in one day. She carried messages for the king and fought bravely in battles. Because she served the king well, he honored her greatly, just as King Udena did with Bhaddavatika.
But when this elephant became old and weak, the king removed all her honors. She became unprotected and lived by eating grass in the forest.
One day, the king needed more clay vessels and called a potter. The potter said he had no oxen to bring cow dung for his work. The king said, “Use the old elephant,” and gave her to the potter to pull the cart.
Later, when the elephant saw the Bodhisatta walking into the city, she fell at his feet and cried. She said: “Lord, when I was strong, the king honored me. I fought for him and served him. But now that I am old, he has taken everything away. Now he has given me to a potter to pull dung carts. I have no one else to help me. Please remind the king of what I have done and restore my honor.”
The Bodhisatta comforted her and promised to help. He went to the king and said: “O King, do you remember how this elephant fought in battles and carried messages for you? You honored her then. But now you have given her to a potter to pull dung. Is this right?”
He explained to the king that people must be grateful for good deeds and loyal service. When people forget kindness, their own work fails. But when they remember and repay good deeds, their work succeeds.
Hearing this, the king felt ashamed. He restored all the elephant’s honors and treated her kindly again. He also gave alms and performed good deeds, inspired by the Bodhisatta’s teaching.
After telling the story, the Buddha explained: The old she-elephant in both stories was Bhaddavatika; King Dalhadhamma was Ananda; and the wise minister was the Buddha himself.
.... o ....
J410. Somadatta Jātaka -- Khóc lóc không thể làm người chết sống lại.
Tóm tắt: Một vị sư già có một chú tiểu giúp việc. Khi chú tiểu qua đời, vị sư đau buồn khôn nguôi. Để an ủi vị sư, Đức Phật kể một câu chuyện về một vị đạo sĩ khổ hạnh nhận nuôi một con voi và sự chỉ dạy của Sakka sau khi con voi chết.
.
Đức Phật kể câu chuyện này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên. Câu chuyện kể về một vị sư già.
Vị sư già này từng truyền giới cho một sa di trẻ tuổi. Sa di phục vụ và chăm sóc ngài, nhưng chẳng bao lâu sau, sa di lâm trọng bệnh và qua đời. Vị sư già đi khắp nơi khóc lóc thảm thiết vì cái chết của sa di.
Các vị sư khác nhìn thấy ông và bàn tán về chuyện này tại Chánh Pháp Đường. Họ nói: “Này các hiền giả, vị sư già này cứ khóc than cho sa di. Chắc hẳn ông ta đã không thực hành thiền định về cái chết một cách tốt đẹp.”
Khi Đức Phật đến và nghe được những gì họ đang bàn tán, Ngài nói: “Này các hiền giả, đây không phải lần đầu tiên người đàn ông này khóc than cho cái chết của chính mình.” Rồi Ngài kể cho họ nghe một câu chuyện từ quá khứ.
Ngày xửa ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Benares, Bồ-tát đã tái sinh thành Sakka, vua của các vị thần cõi trời.
Lúc bấy giờ, một vị Bà-la-môn giàu có từ Benares rời bỏ quê hương để trở thành một ẩn sĩ trong rừng núi Hy Mã Lạp Sơn. Ông sống giản dị, hái lượm rễ cây và trái cây để ăn.
Một ngày nọ, khi đang đi kiếm ăn, ông tìm thấy một chú voi con. Ông thương yêu nó, mang nó về túp lều của mình và chăm sóc nó như con ruột. Ông đặt tên cho chú voi là Somadatta. Ông cho nó ăn cỏ và lá cây, và chú voi lớn lên khỏe mạnh.
Nhưng một ngày nọ, chú voi ăn quá nhiều và bị bệnh nặng. Nhà sư đưa chú voi vào nơi trú ẩn của mình và ra ngoài hái trái cây. Trong lúc ông đi vắng, chú voi đã chết.
Khi nhà sư trở về, ông tự hỏi tại sao "đứa con" của mình không đến chào đón như thường lệ. Rồi ông thấy chú voi đã chết. Quá đau buồn, ông khóc lớn và ôm chú voi, thương tiếc cái chết của nó.
Lúc đó, Sakka nhìn khắp thế gian và nghĩ: "Người đàn ông này đã rời bỏ gia đình thực sự của mình để theo đuổi con đường tâm linh, vậy mà giờ đây ông lại khóc thương một con vật mà ông coi như con trai. Ta phải giúp ông ấy hiểu ra."
Sakka hiện ra trên không trung phía trên túp lều và nhắc nhở vị đạo sĩ rằng một bậc thánh nhân không nên quá đau buồn cho người chết.
Vị đạo sĩ trả lời rằng ngay cả người sống chung với động vật cũng có thể cảm thấy đau buồn khi bạn đồng hành qua đời.
Sau đó, Sakka nhẹ nhàng khuyên ông: khóc lóc không thể khiến người chết sống lại. Nếu nước mắt có thể cứu người chết, mọi người sẽ khóc để đưa người thân của mình trở về. Vì cái chết không thể dừng lại bằng đau buồn, nên người trí chấp nhận nó.
Nghe vậy, vị đạo sĩ hiểu ra. Nỗi buồn của ông tan biến, và ông cảm thấy biết ơn Sakka vì đã giúp ông buông bỏ nỗi đau buồn.
Sau khi thuyết giảng xong, Sakka trở về thiên giới.
Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, Ngài nói: “Trong kiếp trước, chú voi con chính là chú sa di. Vị đạo sĩ chính là vị sư già ngày nay. Và chính ta là Sakka.”
.... o ....
J410. Somadatta Jātaka -- Crying cannot bring the dead back to life.
Summary: An elderly monk had a novice to assist him. When the novice passed away, the monk was inconsolable. To comfort him, the Buddha shared a story about an ascetic who had adopted an elephant and the guidance he received from Sakka after the elephant's death.
.
The Buddha told this story while he was staying at Jetavana. It was about an old monk.
This old monk had once ordained a young novice. The novice served him and took care of him, but soon the novice became seriously ill and died. The old monk walked around crying loudly because of the novice’s death.
Other monks saw him and talked about it in the Hall of Truth. They said, “Friends, this old monk keeps crying and mourning for the novice. He must not have practiced meditation on death well.”
When the Buddha arrived and heard what they were talking about, he said, “Monks, this is not the first time this man has cried for this same person’s death.” Then he told them a story from the past.
A long time ago, when King Brahmadatta ruled in Benares, the Bodhisatta was reborn as Sakka, the king of the gods.
At that time, a rich brahmin from Benares left his home to become a forest ascetic in the Himalayas. He lived simply, gathering roots and fruits to eat.
One day, while searching for food, he found a baby elephant. He felt affection for it, brought it back to his hut, and cared for it as if it were his own child. He named the elephant Somadatta. He fed it grass and leaves, and the elephant grew big and strong.
But one day the elephant ate too much and became very sick. The ascetic placed the elephant in his shelter and went out to gather fruits. While he was away, the elephant died.
When the ascetic returned, he wondered why his “child” did not come to greet him as usual. Then he found the elephant dead. Overcome with sadness, he cried loudly and held the elephant, mourning its death.
At that moment, Sakka looked across the world and thought: “This man left his real family to follow the spiritual path, yet now he is crying over an animal he treated like a son. I should help him understand.”
Sakka appeared in the air above the hut and reminded the ascetic that it was not fitting for a holy man to grieve so deeply for the dead.
The ascetic answered that even someone living with animals can feel sorrow when a companion dies.
Then Sakka gently advised him: crying cannot bring the dead back. If tears could save the dead, everyone would cry to bring their loved ones back. Since death cannot be stopped by grieving, the wise accept it.
Hearing this, the ascetic understood. His sadness faded, and he felt grateful to Sakka for helping him let go of his grief.
After giving this teaching, Sakka returned to his heavenly home.
When the Buddha finished the story, he said: “In that past life, the young elephant was the same person as the novice. The ascetic was the same as the old monk today. And I myself was Sakka.”
.... o ....