SƯ CÔ NGỌC LÃM TƯỜNG TRÌNH VỀ CHUYẾN CỨU TRỢ VIỆT NAM

Nam mô Đại Từ Bi Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát

Kính bạch chư Tôn đức Tăng Ni,  

Thưa quý Phật tử, nhà hảo tâm Hải ngoại và Việt Nam,

Xem tiếp...
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Bản Sanh: truyện 451 tới 460 / Jataka Tales: Stories 451–460
Tác giả: Nguyên bản: Pali Anh dịch: W.H.D. Rouse và Ānandajoti Bhikkhu Việt dịch và rút ngắn: Nguyên Giác

J451. Cakka-Vaka Jātaka -- Để có tình yêu và kính trọng, cần từ bỏ ham muốn có hại, tránh làm khổ người khác, và phải sống từ bi và giới hạnh.

Tóm tắt: Một vị sư tham lam thường xuyên bị các vị sư khác nhắc đến. Đức Phật đã kể một câu chuyện ngụ ngôn về một con quạ cố gắng thử nhiều loại thức ăn khác nhau để tỏ ra hơn người, nhưng một con ngỗng đã dạy cho nó rằng đức hạnh, chứ không phải thức ăn, mới làm cho người ta trở nên đáng yêu.

.

Câu chuyện này được Đức Phật kể khi ngài đang trú ngụ tại Jetavana, về một vị Tỳ kheo tham lam.

Vị Tỳ kheo này không hài lòng với cuộc sống khất thực giản dị của mình và luôn tìm kiếm những lời mời ăn uống và các bữa ăn thịnh soạn cho Tăng đoàn. Ông ta đặc biệt vui mừng mỗi khi nghe nói rằng sẽ có thịt được phục vụ. Một số vị Tỳ kheo tốt bụng, vì lo lắng cho ông ta, đã báo cáo hành vi này với Đức Phật. Khi biết chuyện, Đức Phật đã khiển trách vị Tỳ kheo vì lòng tham lam của ông ta và nhắc nhở rằng trạng thái đó là không tốt và cản trở con đường giải thoát. Sau đó, ngài giải thích rằng lòng tham lam tương tự đã tồn tại trong kiếp trước và đã dẫn đến sự bất mãn và lang thang. Để minh họa điều này, ngài đã kể một câu chuyện từ quá khứ.

Ngày xưa, khi Brahmadatta là vua của Benares, có một con quạ vô cùng tham lam. Trong thành phố Benares không thiếu thức ăn thừa, bao gồm cả xác voi và các loại phế phẩm khác, nhưng con quạ vẫn không thỏa mãn. Bị thúc đẩy bởi lòng tham muốn nhiều hơn, nó rời thành phố và đi vào khu rừng lớn. Ở đó, nó tìm thấy trái cây rừng, nhưng những thứ này cũng không làm nó hài lòng. Vẫn không yên lòng, nó đi đến bờ sông Hằng.

Khi đi dọc theo con sông, con quạ nhận thấy một cặp ngỗng đỏ. Vẻ ngoài của chúng rất đẹp, thân hình đầy đặn và lông vũ tỏa sáng với màu đỏ rực rỡ. Nhìn thấy chúng, con quạ cho rằng vẻ đẹp như vậy chắc hẳn đến từ việc ăn những thức ăn ngon và phong phú, có lẽ là cá từ sông. Nó tưởng tượng rằng nếu nó có thể ăn cùng loại thức ăn đó, nó cũng có thể có được màu sắc đẹp như vậy.

Tuy nhiên, qua quan sát những con ngỗng, nó nhận ra rằng chúng không ăn cá, xác chết hay bất kỳ loại thịt nào. Thức ăn của chúng chỉ bao gồm cỏ dại và thực vật dưới nước. Con quạ không thể chấp nhận điều này và thay vào đó suy nghĩ về thói quen của chính mình, nghĩ đến những món ăn ngon và được nêm nếm kỹ lưỡng do con người chế biến, cơm và thịt được nêm muối và dầu, mà đôi khi nó có được. Tuy nhiên, mặc dù ăn những thức ăn như vậy, màu sắc của nó vẫn xám xịt và xấu xí.

Con ngỗng đỏ, hiểu rõ vấn đề hơn, đã chỉ ra rằng sự khác biệt không nằm ở sự phong phú của thức ăn mà ở hành vi và trạng thái tâm trí. Vẻ ngoài tối tăm và khó coi của con quạ là kết quả của sự sợ hãi, bạo lực và gánh nặng của những hành động bất thiện trong quá khứ. Vì sống bằng cách làm hại người khác và dựa vào lòng tham, tâm trí của con Quạ luôn bất an và lo lắng, và trạng thái nội tâm này được thể hiện ra bên ngoài. Ngược lại, con Ngỗng sống mà không làm hại ai, không sợ hãi và lo lắng, bằng lòng với thức ăn đơn giản, và sống hòa thuận với thế giới. Từ sự vô hại và đức hạnh đó mà vẻ đẹp của nó và tình yêu thương của người khác dành cho nó được hình thành.

Con Ngỗng đã làm rõ rằng người nào muốn được yêu thương và kính trọng thì phải từ bỏ những dục vọng xấu xa, kiềm chế không làm hại chúng sinh, và sống với lòng tốt và sự tiết chế. Người như vậy không ghét ai và cũng không bị ai ghét, và sống trên thế giới mà không sợ hãi.

Tuy nhiên, con Quạ đã từ chối lời dạy này. Không muốn từ bỏ thói quen của mình, nó kêu lên một tiếng chói tai và bay trở lại đống phân ở Benares, trở về với cuộc sống phù hợp với bản chất của nó.

Sau khi kể xong câu chuyện này, Đức Phật giải thích ý nghĩa của nó và tuyên bố những Chân lý. Kết thúc bài giảng, vị Tỳ kheo tham lam đã đạt được quả vị Bất Lai. Đức Phật sau đó đã xác định các nhân vật trong quá khứ, giải thích rằng vị Tỳ kheo tham lam chính là con Quạ, mẹ của Rahula là bạn đời của con Ngỗng đỏ, và chính Ngài là con Ngỗng đỏ.

.... o ....

J451. Cakka-Vaka Jātaka -- To attain love and respect, one must relinquish harmful desires, refrain from causing pain to others, and embody kindness and self-discipline.

Summary: One greedy monk was regularly mentioned by his peers. The Buddha told a parable about a crow who tried numerous foods to seem better, but a goose taught him that virtue, not food, makes one lovely.

.

This story was told by the Buddha while he was dwelling at Jetavana, concerning a Brother who was greedy.

The Brother was dissatisfied with his simple mendicant’s life and was always seeking out invitations and meals for the Order. He took special delight whenever he heard that meat would be served. Some well-meaning Brethren, out of concern for him, reported this conduct to the Buddha. When the Buddha learned of it, he reproved the Brother for his greed and reminded him that such a state was unwholesome and obstructed the path to liberation. He then explained that this same greed had existed in a former life and had led to dissatisfaction and wandering. To illustrate this, he related a story from the past.

Long ago, when Brahmadatta was king of Benares, there lived a Crow who was exceedingly greedy. In the city of Benares there was no lack of refuse, including the carcasses of elephants and other offal, yet the Crow was not content. Driven by desire for more, he left the city and went into the great forest. There he found wild fruits, but these too failed to satisfy him. Still restless, he made his way to the bank of the Ganges.

As he traveled along the river, the Crow noticed a pair of Ruddy Geese. Their appearance was beautiful, their bodies full and their feathers glowing with a rich red color. Seeing them, the Crow assumed that such beauty must come from eating rich and plentiful food, perhaps fish from the river. He imagined that if he could eat the same food, he too might acquire such fine coloring.

From observing the geese, however, he learned that they did not feed on fish, carrion, or flesh of any kind. Their food consisted only of weeds and plants from the water. The Crow could not accept this and reflected instead on his own habits, thinking of the rich and seasoned foods prepared by humans, rice and meat flavored with salt and oil, which he sometimes obtained. Yet despite eating such food, his color remained dull and ugly.

The Ruddy Goose, understanding the matter more deeply, showed that the difference lay not in the richness of food but in conduct and state of mind. The Crow’s dark and unpleasant appearance was the result of fear, violence, and the burden of past unwholesome actions. Because he lived by harming others and feeding on corruption, his mind was restless and anxious, and this inner condition was reflected outwardly. The Goose, by contrast, lived without harming others, free from fear and anxiety, content with simple food, and at ease with the world. From such harmlessness and righteousness came his beauty and the affection of others.

The Goose made clear that one who wishes to be loved and respected must abandon evil passions, refrain from harming living beings, and live with kindness and restraint. Such a person neither hates nor is hated and moves through the world without fear.

The Crow, however, rejected this teaching. Unwilling to give up his habits, he cried out harshly and flew back to the dunghill of Benares, returning to the life that matched his nature.

After finishing this story, the Buddha explained its meaning and declared the Truths. At the conclusion of the teaching, the greedy Brother attained the fruit of the Third Path. The Buddha then identified the characters of the past, explaining that the greedy Brother had been the Crow, Rahula’s mother had been the mate of the Ruddy Goose, and he himself had been the Ruddy Goose.

.... o ....

J452. Bhuri-Panha Jātaka -- Người trí tuệ không làm ác để cho vui.

Tóm tắt: Đức Phật kể một câu chuyện về kiếp trước để chứng minh trí tuệ của mình cho các vị tỳ kheo. Một vị vua đã đối xử bất công với một vị hiền triết. Sau khi các cố vấn không thể làm dịu cơn giận của nhà vua, nhà vua đã cử bốn cận thần đi tìm và đưa vị hiền triết đó trở về. Khi trở về, vị này đã khiển trách nhà vua vì sự bất công của ông ta.

.

Câu chuyện này, được gọi là Bhūripañhajātaka, sau đó lại sẽ xuất hiện trong Ummaggajātaka (Jataka 546).

Nhà vua, bị nỗi sợ hãi tột độ ám ảnh, đã cử bốn cận thần đi tìm vào ngày hôm sau. Mỗi người được lệnh lên xe ngựa và rời khỏi thành phố qua một trong bốn cổng, với chỉ thị tìm kiếm vị hiền nhân Mahosadha. Bất cứ nơi nào tìm thấy ông, họ phải đối xử với ông một cách kính trọng và đưa ông trở về ngay lập tức. Ba cận thần không tìm thấy vị hiền nhân. Người thứ tư, đi ra bằng cổng phía nam, đã tìm thấy Mahosadha đang sống ở khu vực phía nam thành phố.

Lúc đó, Mahosadha đang kiếm sống bằng nghề phụ giúp thợ gốm. Sau khi thu thập đất sét và quay bánh xe của chủ, chàng ngồi trên một bó rơm, người dính đầy bùn, ăn những viên cơm nhúng vào một ít canh. Chàng sống như vậy một cách có chủ ý. Anh đã suy nghĩ rằng nhà vua có thể nghi ngờ anh có tham vọng chiếm đoạt ngai vàng, nhưng nếu mọi người biết rằng anh tự nuôi sống bản thân bằng lao động khiêm nhường, những nghi ngờ đó sẽ biến mất. Khi nhận thấy cận thần đang đến gần, anh ngay lập tức hiểu rằng người đó được cử đến để đón anh. Anh cũng biết rằng giàu sang sự thịnh vượng trước đây của mình sẽ sớm được khôi phục và anh sẽ lại được thưởng thức những món ăn ngon do bà Amarā chuẩn bị. Vì vậy, anh đặt thức ăn đang ăn xuống, đứng dậy và súc miệng.

Nhưng vị cận thần tìm thấy anh lại thuộc phe chống đối Mahosadha và đã nói với anh một cách khinh miệt, chế giễu hoàn cảnh sa sút của anh và cho rằng trí tuệ của anh giờ đây đã vô dụng khi anh sống trong cảnh nghèo khó như vậy. Mahosadha đáp lại một cách bình tĩnh, làm rõ rằng chỉ bằng trí tuệ, anh có thể khôi phục lại sự thịnh vượng bất cứ khi nào thời điểm thích hợp đến, và rằng anh vẫn hài lòng ngay cả với những bữa ăn đơn giản vì anh hiểu khi nào cần hành động và khi nào cần ẩn mình. Anh bày tỏ sự tự tin rằng khi thời cơ đến, sức mạnh và trí thông minh của anh sẽ lại được thể hiện rõ ràng.

Vị cận thần sau đó giải thích lý do thực sự của nhiệm vụ của mình. Bởi vì một vị thần liên quan đến chiếc lọng hoàng gia đã đặt ra một câu hỏi khó cho nhà vua. Nhà vua đã tham khảo ý kiến ​​của bốn người uyên bác, nhưng không ai có thể giải quyết được. Vì lý do đó, Mahosadha đã được triệu tập. Mahosadha chỉ ra rằng tình huống này đã chứng minh sức mạnh thực sự của trí tuệ, bởi vì trong những khoảnh khắc như vậy, của cải và sự giàu sang bề ngoài đều vô dụng, trong khi chỉ có trí tuệ sáng suốt mới có thể đưa ra câu trả lời.

Viên quan cận thần sau đó đã trao cho Mahosadha một nghìn đồng tiền và một bộ quần áo do nhà vua gửi đến, để chàng có thể tắm rửa và thay quần áo ngay lập tức. Người thợ gốm, nhận ra rằng vị hiền triết vĩ đại đã làm việc dưới quyền mình, vô cùng sợ hãi. Mahosadha trấn an người thợ gốm, bày tỏ lòng biết ơn về sự giúp đỡ mà anh đã nhận được, và tặng lại cho ông ta một nghìn đồng tiền. Vẫn còn dính vết bùn trên người, Mahosadha lên xe ngựa và trở về thành phố.

Khi viên cận thần báo tin cho nhà vua về sự xuất hiện của Mahosadha, thuật lại rằng vị hiền nhân đã sống như một người thợ gốm ở phía nam và đã đến ngay lập tức, không kịp tắm rửa, ngay khi nghe tin triệu tập. Nhà vua suy nghĩ rằng nếu Mahosadha là kẻ thù, chàng sẽ trở về với vẻ phô trương và kiêu ngạo. Kết luận rằng không có nguy hiểm nào như vậy, nhà vua ra lệnh đưa Mahosadha đến nơi ở của mình, tắm rửa, trang điểm và sau đó hộ tống chàng trở lại với nghi lễ trang trọng. Việc này được thực hiện, và Mahosadha trở lại, bày tỏ lòng kính trọng với nhà vua và đứng một cách cung kính ở một bên.

Nhà vua nói chuyện với chàng một cách tử tế nhưng sau đó thử thách chàng, suy nghĩ về việc một số người chỉ kiềm chế không làm điều xấu vì tiền bạc hoặc sợ bị khiển trách. Vua hỏi tại sao Mahosadha, người có khả năng kiếm được nhiều của cải nếu muốn, lại chưa bao giờ làm hại vua. Mahosadha giải thích rằng những người thực sự khôn ngoan không làm điều ác vì khoái lạc hay lợi ích, và những người tốt, ngay cả khi gặp khó khăn, cũng không từ bỏ sự chính trực vì tình bạn hay thù hận.

Nhà vua sau đó suy nghĩ về ý tưởng rằng người nào vươn lên từ vị trí thấp kém thì sau đó nên sống theo lẽ phải. Mahosadha minh họa nguyên tắc này bằng ví dụ về một cái cây, chỉ ra rằng việc chặt một cành cây mà mình đã từng nghỉ ngơi dưới bóng râm của nó là một hành động phản bội. Chàng tiếp tục giải thích rằng nếu hành động đó được coi là phản bội đối với một cái cây, thì việc phản bội hoặc làm hại một người sẽ còn tồi tệ hơn biết bao. Nhà vua đã ban cho cha của Mahosadha rất nhiều của cải và thể hiện nhiều ân huệ đối với chính Mahosadha, và vì lý do đó, việc chàng làm hại nhà vua dưới bất kỳ hình thức nào là điều không thể tưởng tượng được.

Sau khi chứng minh rõ ràng lòng trung thành của mình, Mahosadha nhẹ nhàng khiển trách nhà vua về sự nghi ngờ trước đó của ông. Chàng giải thích rằng khi một người tiết lộ điều đúng đắn hoặc xua tan những nghi ngờ của người khác, một mối liên kết tin tưởng và bảo vệ được hình thành, và một người khôn ngoan sẽ không phá hủy mối quan hệ đó.

Cuối cùng, Mahosadha khuyên nhà vua về cách cư xử đúng đắn của người cai trị. Chàng lên án sự hưởng thụ nhàn rỗi ở những người bình thường, sự khổ hạnh giả tạo, sự phán xét bất công của các vị vua, và sự tức giận không kiểm soát ngay cả ở những người khôn ngoan. Chàng nhấn mạnh rằng một vị vua chiến binh thực sự phải xem xét cẩn thận mọi việc và đưa ra những phán quyết được cân nhắc kỹ lưỡng, và những vị vua suy nghĩ khôn ngoan trong các quyết định của mình sẽ đạt được danh tiếng lâu dài.

.... o ....

J452. Bhuri-Panha Jātaka -- Wise people don't do evil for fun.

Summary: The Buddha tells a former life narrative to demonstrate his wisdom to the monks.  Unfairly, a ruler vanquished a smart man.  After his counselors failed to calm him, the king despatched four courtiers to discover and return the wise man.  When he returned, the wise man chastised the king for his unfairness.

.

This story, known as the Bhūripañhajātaka, later appears again in the Ummaggajātaka (Jataka 546).

The king, stricken with intense fear, sent out four courtiers the next day. Each was ordered to mount a chariot and leave by one of the four gates of the city, with instructions to search for the wise Mahosadha. Wherever they found him, they were to treat him with honor and bring him back at once. Three of the courtiers failed to find the sage. The fourth, who went out by the southern gate, discovered Mahosadha living in the southern quarter of the city.

At that time, Mahosadha was earning his living as a potter’s helper. After gathering clay and turning his master’s wheel, he sat on a bundle of straw, his body smeared with mud, eating balls of rice dipped in a little soup. He lived this way deliberately. He had reflected that the king might suspect him of harboring ambitions for the throne, but if it were known that he supported himself by humble labor, such suspicions would vanish. When he noticed the approach of the courtier, he immediately understood that the man had been sent to fetch him. He also knew that his former prosperity would soon be restored and that he would again partake of the fine food prepared by the lady Amarā. He therefore set aside the food he was eating, stood up, and rinsed his mouth.

The courtier who found him belonged to the faction opposed to Mahosadha and addressed him with scorn, mocking his fallen condition and suggesting that his wisdom had been useless now that he lived in such poverty. Mahosadha responded calmly, making it clear that through wisdom alone he could restore prosperity whenever the proper time arrived, and that he remained content even with simple fare because he understood when to act and when to remain concealed. He expressed confidence that when the moment came, his strength and intelligence would once again be evident.

The courtier then explained the true reason for his mission. A deity associated with the royal parasol had posed a difficult question to the king. The king had consulted four learned men, but none had been able to solve it. For this reason, Mahosadha had been summoned. Mahosadha pointed out that this situation demonstrated the true power of wisdom, for in such moments wealth and outward prosperity were of no use, whereas insight alone could provide an answer.

The courtier then presented Mahosadha with a thousand pieces of money and a set of clothes sent by the king, so that he might bathe and dress immediately. The potter, realizing that the great sage had been working under him, was overcome with fear. Mahosadha reassured him, expressing gratitude for the help he had received, and gave him a thousand pieces of money in return. Still bearing the stains of mud on his body, Mahosadha mounted the chariot and returned to the city.

When the courtier informed the king of Mahosadha’s arrival, he reported that the sage had been living as a potter in the southern quarter and had come at once, without bathing, as soon as he heard of the summons. The king reflected that if Mahosadha had been an enemy, he would have returned with pomp and display. Concluding that no such danger existed, the king ordered that Mahosadha be taken to his residence, bathed, adorned, and then escorted back with due ceremony. This was carried out, and Mahosadha returned, paid his respects to the king, and stood respectfully to one side.

The king addressed him kindly but then tested him, reflecting on the fact that some people refrain from wrongdoing only because of wealth or fear of blame. He questioned why Mahosadha, who possessed the ability to acquire great riches if he wished, had never harmed him. Mahosadha explained that truly wise people do not commit evil for the sake of pleasure or gain, and that good men, even when brought low by misfortune, do not abandon righteousness either for friendship or for hostility.

The king then reflected on the idea that one who rises from a low position should afterward live according to righteousness. Mahosadha illustrated this principle with the example of a tree, pointing out that it would be an act of treachery to cut a branch from a tree beneath whose shade one had rested. He went on to explain that if such an act were considered treacherous toward a tree, how much worse it would be to betray or harm a person. The king had bestowed great wealth on Mahosadha’s father and shown Mahosadha himself much favor, and for this reason it would be unthinkable for him to injure the king in any way.

Having clearly demonstrated his loyalty, Mahosadha reproached the king gently for his earlier suspicion. He explained that when one person has revealed what is right or dispelled another’s doubts, a bond of trust and protection is formed, and a wise person does not destroy such a relationship.

Finally, Mahosadha admonished the king on the proper conduct of rulers. He condemned idle sensuality in laypeople, false asceticism, unjust judgment by kings, and uncontrolled anger even in the wise. He emphasized that a true warrior-king carefully considers matters and delivers well-weighed judgments, and that kings who deliberate wisely in their decisions secure lasting fame.

.... o ....

J453. Maha-Mangala Jātaka -- Phước lành đến từ lối sống đạo đức và trí tuệ, chứ không phải từ mê tín hay điềm báo.

Tóm tắt: Mọi người băn khoăn về điều gì thực sự được coi là các điềm báo trong cuộc sống. Đức Phật kể một câu chuyện về một người hiền triết từ thời xa xưa đã giải đáp chính câu hỏi này, tiết lộ những điềm báo thực sự trong cuộc sống là gì.

.

Câu chuyện này được Đức Phật kể lại khi Ngài đang trú ngụ tại Jetavana, liên quan đến Kinh Maha-mangala, Luận về điềm lành.

Một lần nọ, tại thành phố Rajagaha, một đám đông lớn tụ tập tại nhà nghỉ của hoàng gia. Trong cuộc tụ họp đó, một người đứng dậy và rời đi, tuyên bố rằng ngày hôm đó là ngày tốt lành. Lời nhận xét của ông ta đã khơi dậy cuộc thảo luận giữa những người có mặt về bản chất của điềm lành. Một số người tin rằng điềm lành nằm ở những gì người ta nhìn thấy, chẳng hạn như động vật, con người hoặc đồ vật được cho là may mắn. Những người khác cho rằng điềm lành được tìm thấy trong những âm thanh mà người ta nghe thấy, trong khi những người khác lại cho rằng điềm lành phụ thuộc vào những thứ mà người ta chạm vào. Những người ủng hộ các quan điểm khác nhau này đã hình thành các nhóm riêng biệt, mỗi nhóm đều tin chắc vào lời giải thích của mình, nhưng không ai có thể thuyết phục được người khác.

Câu hỏi này lan rộng ra ngoài cuộc tụ họp đó. Từ các vị thần trên mặt đất cho đến cõi Brahma, không ai có thể đưa ra câu trả lời rõ ràng và cuối cùng về điều gì tạo nên một điềm lành thực sự. Sakka, vua của các vị thần, suy nghĩ rằng trong số các vị thần và con người, chỉ có Đức Phật mới có trí tuệ để giải quyết nghi ngờ này. Vì vậy, ông đã đến gặp Đức Phật vào ban đêm, bày tỏ lòng kính trọng và đặt câu hỏi về điềm lành trước Ngài. Đức Phật đã đáp lại bằng cách giảng dạy về những phước lành lớn, nêu rõ ý nghĩa thực sự của sự tốt lành. Khi bài giảng này được truyền đạt, vô số chúng sinh đã đạt được các giai đoạn giải thoát, và nhiều người khác đã bước vào con đường dẫn đến giác ngộ. Khi bài giảng kết thúc, Sakka trở về cõi của mình, và cả thần và người đều vui mừng trước sự giải thích rõ ràng của Đức Phật.

Sau đó, trong Chánh điện, các vị tỳ kheo đang thảo luận về trí tuệ phi thường của Đức Phật. Họ kinh ngạc rằng một vấn đề đã làm khó cả thần và người lại được giải quyết một cách rõ ràng và từ bi như vậy. Khi Đức Phật bước vào và hỏi họ đang thảo luận về điều gì, họ đã kể cho Ngài nghe về sự ngưỡng mộ của họ. Đức Phật trả lời rằng không có gì đáng ngạc nhiên khi Ngài có thể giải quyết vấn đề này bây giờ, vì ngay cả trong những kiếp trước, khi Ngài vẫn còn là một Bồ Tát, Ngài cũng đã giải quyết vấn đề tương tự vì lợi ích của cả cõi các vị thần và người. Sau đó, Ngài kể một câu chuyện từ quá khứ.

Từ rất lâu trước đây, Bồ Tát được sinh ra trong gia đình một vị Bà la môn giàu có ở một thị trấn nào đó và được đặt tên là Rakkhita-Kumara. Khi trưởng thành, ngài hoàn thành việc học tại Takkasila, kết hôn và sau đó thừa kế tài sản của cha mẹ. Suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống, ông đã phân phát tài sản của mình cho người nghèo, chế ngự dục vọng và từ bỏ cuộc sống gia đình. Ông trở thành một ẩn sĩ ở vùng Himalaya, nơi ông phát triển năng lực tâm linh và sống nhờ rễ cây và trái cây rừng. Theo thời gian, năm trăm đệ tử đã tụ tập xung quanh ông và sống dưới sự hướng dẫn của ông.

Khi mùa mưa đến gần, các đệ tử của ngài muốn xuống núi Himalaya để đi khắp vùng nông thôn tìm kiếm nhu yếu phẩm và rèn luyện thân thể. Bồ Tát cho phép họ đi, còn ngài thì ở lại. Các vị tu sĩ cuối cùng đến Benares và cư ngụ trong công viên hoàng gia, nơi họ được đối đãi rất mực kính trọng và hào phóng.

Trong thời gian này, câu hỏi về các điềm báo lại xuất hiện ở Benares, giống như trước đó ở Rajagaha. Một cuộc họp lớn đã tranh luận về vấn đề này, nhưng một lần nữa không ai có thể giải quyết được những quan điểm trái ngược nhau. Vấn đề sau đó được đưa ra trước nhóm các vị tu sĩ. Họ thừa nhận rằng bản thân họ không thể giải quyết vấn đề, nhưng giải thích rằng thầy của họ, ẩn sĩ Rakkhita đang sống ở dãy Himalaya, sở hữu trí tuệ để làm điều đó, vì ngài hiểu được tâm trí của cả con người và thần linh. Vì nhà vua không thể tự mình thực hiện chuyến đi khó khăn đó, ông đã yêu cầu các vị tu sĩ trở về gặp thầy của họ, học hỏi lời giải thích chân chính, và sau đó báo cáo lại.

Các đệ tử trở về dãy Himalaya và kể lại toàn bộ sự việc cho thầy của họ, giải thích những quan điểm khác nhau về ý nghĩa các điềm báo và yêu cầu của nhà vua về một câu trả lời. Bồ Tát sau đó đã trình bày sự hiểu biết chân chính về điềm lành. Ngài giải thích rằng phước lành không nằm ở những dấu hiệu, cảnh tượng, âm thanh hay sự tiếp xúc bên ngoài, mà nằm ở hành vi đức hạnh, cách cư xử khôn ngoan và sự thanh tịnh của tâm hồn. Ngài mô tả những phẩm chất tạo nên phước lành thực sự, chẳng hạn như lòng tốt đối với tất cả chúng sinh, kiềm chế không gây hại, khiêm nhường, kết bạn với người tốt, trung thành, rộng lượng, lãnh đạo công chính, tận tâm với đức hạnh và kết giao với người khôn ngoan. Bằng cách này, ngài đã xua tan những nghi ngờ của cả thần linh và con người, và cho thấy rằng phước lành chân chính xuất phát từ lối sống đạo đức và trí tuệ, chứ không phải từ mê tín hay những dấu hiệu ngẫu nhiên.

Sau khi nghe lời dạy này, các đệ tử ở lại với thầy của họ vài ngày rồi ra đi. Khi trở về gặp nhà vua, họ giải thích vấn đề về các điềm báo chính xác như những gì đã được dạy cho họ. Từ đó trở đi, ý nghĩa chân chính của điềm lành được biết đến trên thế giới. Những người sống theo sự hiểu biết này đã tu dưỡng đức hạnh và, vào cuối cuộc đời, được tái sinh vào cõi trời. Bản thân Bồ Tát tiếp tục phát triển các phẩm chất hoàn hảo và cuối cùng được tái sinh, cùng với các đệ tử của ngài, vào cõi Brahma. Sau khi kể xong câu chuyện này, Đức Phật kết luận bằng cách giải thích rằng Ngài không chỉ giải quyết vấn đề các điềm báo trong kiếp sống hiện tại mà còn cả trong kiếp sống trước đây. Sau đó, Ngài xác định các nhân vật trong câu chuyện, nói rằng nhóm hiền giả chính là các vị tỳ kheo đang theo Ngài, rằng Sariputta là vị đệ tử lớn tuổi nhất đã đặt câu hỏi, và chính Ngài là vị thầy đã giải thích ý nghĩa thực sự của những điềm báo.

.... o ....

J453. Maha-Mangala Jātaka -- True blessings come from ethical life and intelligence, not superstition or omens.

Summary: People remain uncertain about what truly qualifies as an omen in the world. The Buddha shares a story about a wise man from long ago who addressed this very question, revealing what genuine omens in life are.

.

This story was told by the Buddha while he was dwelling at Jetavana, concerning the Maha-mangala Scripture, the Treatise on Omens.

At one time in the city of Rajagaha, a large crowd had gathered in the royal resting house. During the gathering, a man rose and left, declaring that the day was auspicious. His remark prompted discussion among those present about the nature of omens. Some believed that omens lay in what one sees, such as animals, people, or objects thought to be lucky. Others held that omens were found in sounds that one hears, while still others claimed that omens depended on things one touched. Supporters of these different views formed separate groups, each convinced of its own explanation, yet none could persuade the others.

The question spread far beyond that gathering. From the spirits of the earth up to the realm of Brahma, no one was able to give a clear and final answer as to what constituted a true omen. Sakka, king of the gods, reflected that among gods and humans only the Buddha possessed the wisdom to resolve this doubt. He therefore went by night to the Buddha, paid him reverence, and put the question of omens before him. The Buddha responded by expounding the teaching of the great blessings, setting forth the true meaning of auspiciousness. As this teaching was delivered, countless beings attained stages of liberation, and many others entered upon the paths leading to awakening. When the teaching was complete, Sakka returned to his own realm, and both gods and humans rejoiced in the clarity of the Buddha’s explanation.

Later, in the Hall of Truth, the monks were discussing the extraordinary wisdom of the Buddha. They marveled that a problem which had confounded gods and men alike had been resolved with such clarity and compassion. When the Buddha entered and asked what they were discussing, they told him of their admiration. The Buddha replied that it was not surprising that he could solve the problem now, for even in former lives, when he was still a Bodhisatta, he had resolved the same question for the benefit of gods and humans alike. He then related a story from the past.

Long ago, the Bodhisatta was born into the family of a wealthy brahmin in a certain town and was named Rakkhita-Kumara. When he grew to maturity, he completed his education at Takkasila, married, and later inherited his parents’ wealth. Reflecting deeply on life, he distributed his riches in charity, subdued his passions, and renounced the household life. He became a hermit in the Himalayan region, where he developed spiritual powers and lived on forest roots and fruits. In time, five hundred disciples gathered around him and lived under his guidance.

When the rainy season approached, his disciples wished to descend from the Himalayas to travel through the countryside in order to obtain necessities and strengthen their bodies. The Bodhisatta allowed them to go while he himself remained behind. The ascetics eventually reached Benares and took up residence in the royal park, where they were treated with great respect and generosity.

During this period, the same question about omens arose in Benares, just as it had earlier in Rajagaha. A large gathering debated the issue, but once again no one could resolve the conflicting views. The matter was then brought before the group of ascetics. They acknowledged that they themselves could not solve the problem but explained that their teacher, the hermit Rakkhita dwelling in the Himalayas, possessed the wisdom to do so, as he understood the minds of both humans and gods. Since the king could not make the difficult journey himself, he asked the ascetics to return to their teacher, learn the true explanation, and then report it back.

The disciples returned to the Himalayas and related the entire matter to their teacher, explaining the differing views on omens and the king’s request for an answer. The Bodhisatta then set forth the true understanding of auspiciousness. He explained that blessings were not found in external signs, sights, sounds, or touches, but in virtuous conduct, wise behavior, and purity of mind. He described the qualities that constitute true blessings, such as kindness toward all beings, restraint from harm, humility, friendship with the good, faithfulness, generosity, righteous leadership, devotion to virtue, and association with the wise. In this way, he dispelled the doubts of gods and humans alike and showed that genuine blessings arise from ethical living and wisdom, not from superstition or chance signs.

After hearing this teaching, the disciples remained with their teacher for several days and then departed. When they returned to the king, they explained the problem of omens exactly as it had been taught to them. From that time onward, the true meaning of auspiciousness became known in the world. Those who lived according to this understanding cultivated virtue and, at the end of their lives, were reborn in heavenly realms. The Bodhisatta himself continued to develop the perfections and was eventually reborn, together with his followers, in the Brahma world.

After completing this account, the Buddha concluded by explaining that he had not only resolved the problem of omens in his present life, but had also done so in a former existence. He then identified the characters of the story, stating that the band of sages were the monks who now followed him, that Sariputta had been the senior disciple who raised the question, and that he himself had been the teacher who explained the true meaning of the omens.

.... o ....

J454. Ghata Jātaka -- Không có sức mạnh, giàu có hay phép thuật nào có thể hồi sinh người chết.

Tóm tắt: Một cư sĩ đau khổ vì mất con được Đức Phật an ủi, và Ngài kể cho ông nghe một loạt câu chuyện. Những câu chuyện này bao gồm câu chuyện về một người phụ nữ có mười người con trai đã chinh phục vương quốc của chú ruột họ, và câu chuyện về một vị vua nhận được sự hướng dẫn sau khi mất đi người con trai của mình.

.

Câu chuyện này được Đức Phật kể khi ngài đang trú ngụ tại Jetavana, liên quan đến nỗi đau buồn của một cư sĩ trước cái chết của một người con trai. Hoàn cảnh tương tự như câu chuyện của Mattha-Kundali. Thấy người cư sĩ bị nỗi buồn lấn át, Đức Phật giải thích rằng ngay cả trong thời xa xưa, những người khôn ngoan cũng đã lắng nghe lời khuyên khôn ngoan và giải thoát bản thân khỏi nỗi đau buồn vì mất con. Theo yêu cầu của người cư sĩ, ngài đã kể một câu chuyện từ quá khứ.

Ngày xưa, vua Mahakamsa trị vì thành phố Asitanjana thuộc vùng Kamsa ở Uttarapatha. Ông có hai người con trai, Kamsa và Upakamsa, và một người con gái tên là Devagabbha. Vào ngày sinh của cô, các đạo sĩ đã tiên tri rằng một người con trai sinh ra từ cô gái này một ngày nào đó sẽ hủy diệt đất nước và dòng dõi hoàng gia. Nhà vua, rất yêu thương con gái, không nỡ làm hại cô. Thay vào đó, ông để mọi chuyện không được giải quyết và sống hết quãng đời còn lại. Sau khi ông qua đời, Kamsa lên ngôi và Upakamsa trở thành phó vương.

Sợ sự phản đối của dân chúng nếu họ giết em gái mình, hai anh em quyết định giữ cô không kết hôn và luôn được canh gác cẩn thận. Họ xây một tòa tháp tròn duy nhất làm nơi ở cho cô. Devagabbha được một người hầu gái tên là Nandagopa chăm sóc, chồng của Nandagopa là Andhakavenhu làm người bảo vệ cho cô.

Vào thời điểm đó, vua Mahasagara trị vì ở Thượng Madhura và có hai người con trai, Sagara và Upasagara. Khi Mahasagara qua đời, Sagara trở thành vua và Upasagara làm phó vương. Upasagara là bạn thân của Upakamsa, cả hai được nuôi dưỡng và giáo dục cùng nhau. Sau khi dính líu đến những việc làm sai trái tại cung điện của anh trai mình, Upasagara bỏ trốn và tìm nơi trú ẩn với Upakamsa, người đã giới thiệu anh ta với vua Kamsa. Nhà vua tiếp đón anh ta một cách trọng thị.

Trong khi phục vụ tại triều đình, Upasagara nhận thấy tòa tháp nơi Devagabbha sống và biết được lý do cô bị giam giữ. Sau đó, khi gặp cô, anh ta đã yêu cô, và cô, sau khi biết được thân phận của anh ta, cũng yêu anh ta. Với sự giúp đỡ của Nandagopa, hai người đã bí mật gặp nhau, và Devagabbha mang thai. Khi tình trạng của cô được biết đến, hai anh em đã chất vấn Nandagopa. Sau khi được tha thứ, cô đã tiết lộ sự thật. Hai anh em quyết định rằng nếu Devagabbha sinh con gái, đứa trẻ sẽ được tha mạng, nhưng nếu sinh con trai, đứa trẻ sẽ bị giết. Sau đó, họ cho phép Devagabbha kết hôn với Upasagara.

Devagabbha sinh con gái đầu lòng, hai anh em vui mừng đón nhận và đặt tên là Anjana. Họ ban cho cặp vợ chồng một ngôi làng tên là Govaddhamana, nơi họ đến sinh sống. Sau đó, công chúa Devagabbha lại mang thai cùng ngày với cô hầu gái Nandagopa. Đến kỳ sinh nở, Devagabbha sinh con trai và Nandagopa sinh con gái. Lo sợ cho tính mạng con trai mình, Devagabbha bí mật đổi con, đưa con trai mình cho cô hầu gái Nandagopa và nhận con gái của Nandagopa về nuôi. Hai anh em được báo rằng một bé gái đã chào đời và họ rất hài lòng. Việc trao đổi này được lặp lại nhiều lần, dẫn đến việc mười người con trai của công chúa Devagabbha được cô hầu gái Nandagopa nuôi dưỡng, và mười người con gái của Nandagopa được Devagabbha nuôi dưỡng. Không ai biết bí mật này.

Mười người con trai lớn lên khỏe mạnh, hung dữ và bạo lực, được biết đến rộng rãi là những đứa con trai của Andhakavenhu, gọi chung là Mười Anh Em Nô Lệ. Cuối cùng, chúng bắt đầu cướp bóc khắp vùng nông thôn và thậm chí cướp cả hàng hóa dành cho nhà vua. Những lời than phiền đến tai triều đình, và Andhakavenhu bị triệu đến và khiển trách. Khi những lời buộc tội tiếp tục và tính mạng của ông bị đe dọa, ông đã tiết lộ sự thật: mười thanh niên đó không phải là con trai của ông mà là 10 con trai của Upasagara. Hoảng sợ, nhà vua đã nghĩ ra một kế hoạch để tiêu diệt chúng bằng cách tổ chức một cuộc thi đấu vật, hy vọng sẽ bắt giữ chúng trong cuộc thi.

Đấu trường đô vật được chuẩn bị vô cùng lộng lẫy, và hai đô vật nổi tiếng Canura và Mutthika bước vào võ đài. Mười anh em cũng đến, được trang điểm lộng lẫy bằng quần áo, nước hoa và vòng hoa cướp được. Trong cuộc thi, Baladeva dễ dàng giết chết cả hai đô vật. Mutthika, trước khi chết, đã ước được tái sinh thành yêu tinh để trả thù. Khi nhà vua ra lệnh bắt giữ Mười anh em, Vasudeva ném một bánh xe giết chết cả vua Kamsa và Upakamsa. Hoảng sợ, người dân quy phục họ, và Mười anh em chiếm lấy ngai vàng của Asitanjana.

Họ đưa cha mẹ đến thành phố và bắt đầu chinh phục đất đai. Họ chinh phục nhiều vương quốc, bao gồm cả Ayojjha, nhưng ban đầu thất bại trong việc chiếm Dvaravati, một thành phố được bảo vệ bởi phép thuật của yêu tinh khiến thành phố bay lên không trung khi kẻ thù đến gần. Tìm kiếm sự hướng dẫn từ đạo sĩ Kanha-dipayana, họ học được cách chế ngự thành phố. Bằng cách neo nó bằng cột sắt và dây xích, họ ngăn không cho nó bay lên và chiếm được thành phố, giết chết vua của nơi này.

Sau khi chinh phục toàn bộ Ấn Độ, họ cai trị từ Dvaravati, chia vương quốc thành mười phần. Nhớ đến người chị gái Anjana, họ dành một phần thứ mười một cho cô ấy. Amkura nhường phần của mình cho chị gái và chuyển sang kinh doanh, sống không phải đóng thuế.

Theo thời gian, cha mẹ họ qua đời, và chính các anh em cũng có nhiều con cái. Cuối cùng, con trai yêu quý của Vasudeva qua đời. Quá đau buồn, Vasudeva bỏ bê nhiệm vụ và nằm than khóc không ngừng. Thấy vậy, Ghatapandita quyết định chữa lành nỗi đau của anh trai. Anh ta giả vờ điên, lang thang khắp thành phố kêu gọi tìm con thỏ trên mặt trăng. Khi Vasudeva đối mặt với anh ta và biết rằng Ghatapandita đang tìm kiếm con thỏ trên mặt trăng, anh ta tuyệt vọng, tin rằng anh trai mình thực sự bị điên. Ghatapandita sau đó tiết lộ mục đích của mình, chỉ ra rằng than khóc cho những gì không thể tồn tại hoặc không thể lấy lại được cũng vô ích như tìm kiếm con thỏ trên mặt trăng. Anh ta giải thích rằng không có quyền lực, sự giàu có hay phép thuật nào có thể đưa người chết trở lại cuộc sống. Nhờ sự hiểu biết này, nỗi đau của Vasudeva cuối cùng đã được xoa dịu, và anh ta lấy lại được sự bình yên trong tâm hồn.

Một thời gian sau, con trai của Mười anh em đã thử thách đạo sĩ Kanha-dipayana bằng sự lừa dối. Nhận thấy sự diệt vong của dòng dõi hoàng gia và cái chết sắp xảy ra của chính mình, vị khổ hạnh đã tiên tri rằng một khúc gỗ keo sẽ hủy diệt họ. Không tin lời ông, họ đã giết ông. Khi lời tiên tri sau đó trở thành sự thật, gỗ keo được đốt cháy và tro được ném xuống sông, từ đó một cây eraka mọc lên.

Trong một bữa tiệc gần cây này, các vị vua đã cãi nhau trong cơn say. Lá của cây eraka biến thành gậy, và các anh em giết lẫn nhau cho đến khi chỉ còn bốn người sống sót: Vasudeva, Baladeva, em gái Anjana và vị giáo sĩ. Họ bỏ trốn vào rừng, nơi Mutthika đã tái sinh thành một yêu tinh. Hắn đã ăn thịt Baladeva. Vasudeva tiếp tục đi cùng những người khác cho đến khi bị một người thợ săn tên Jara tấn công trọng thương. Biết cái chết đang đến gần, Vasudeva đã dạy cho những người bạn đồng hành một kỹ năng để họ có thể sống sót, rồi ông qua đời.

Như vậy, tất cả đều chết trừ Anjana.

Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, Ngài giải thích rằng trong quá khứ, cũng như hiện tại, lời khuyên khôn ngoan đã giúp con người thoát khỏi nỗi đau buồn về cái chết của con trai. Kết thúc bài giảng, người cư sĩ đã đạt được sơ quả Nhập Lưu. Sau đó, Đức Phật xác định các nhân vật trong câu chuyện, nói rằng Ananda là Rohineyya, Sariputta là Vasudeva, hội chúng đệ tử là những nhân vật khác, và chính Ngài là Ghatapandita.

.... o ....

J454. Ghata Jātaka -- No amount of power, wealth, or magic could bring the dead back to life.

Summary: A grieving layman who has lost his son is comforted by the Buddha, who shares a series of stories. These tales include a woman with ten sons who first conquered their uncle’s kingdom and and a king who received guidance after the loss of his own son.

.

This story was told by the Buddha while he was dwelling at Jetavana, concerning grief over the death of a son. The circumstances were similar to those in the story of Mattha-Kundali. Seeing a lay follower overwhelmed by sorrow, the Buddha explained that even in ancient times wise people had listened to wise counsel and freed themselves from grief over the loss of a child. At the layman’s request, he related a story from the past.

Long ago, King Mahakamsa ruled in the city of Asitanjana in the Kamsa district of Uttarapatha. He had two sons, Kamsa and Upakamsa, and a daughter named Devagabbha. On the day of her birth, brahmins foretold that a son born of this girl would one day destroy the country and the royal lineage. The king, deeply attached to his daughter, did not have the heart to harm her. Instead, he left the matter unresolved and lived out his days. After his death, Kamsa ascended the throne and Upakamsa became viceroy.

Fearing public outcry if they killed their sister, the brothers decided to keep her unmarried and under constant watch. They built a single round tower for her residence. Devagabbha was attended by a servant woman named Nandagopa, whose husband Andhakavenhu served as her guardian.

At that time, King Mahasagara ruled in Upper Madhura and had two sons, Sagara and Upasagara. When Mahasagara died, Sagara became king and Upasagara viceroy. Upasagara was a close friend of Upakamsa, having been raised and educated alongside him. After becoming involved in wrongdoing at his brother’s palace, Upasagara fled and sought refuge with Upakamsa, who introduced him to King Kamsa. The king received him with honor.

While serving at court, Upasagara noticed the tower where Devagabbha lived and learned the reason for her seclusion. Seeing her later, he fell in love with her, and she, learning of his identity, fell in love with him as well. With Nandagopa’s help, the two were secretly brought together, and Devagabbha conceived a child. When her condition became known, the brothers questioned Nandagopa. After securing forgiveness, she revealed the truth. The brothers decided that if Devagabbha bore a daughter, the child would be spared, but if a son, he would be killed. They then allowed Devagabbha to marry Upasagara.

Devagabbha first gave birth to a daughter, whom the brothers joyfully accepted and named Anjana. They granted the couple a village called Govaddhamana, where they went to live. Later, Devagabbha conceived again on the same day as Nandagopa. When the time came, Devagabbha bore a son and Nandagopa a daughter. Fearing for her son’s life, Devagabbha secretly exchanged the children, giving her son to Nandagopa and taking Nandagopa’s daughter in return. The brothers were told that a daughter had been born and were satisfied. This exchange was repeated over time, resulting in ten sons of Devagabbha being raised by Nandagopa, and ten daughters of Nandagopa being raised by Devagabbha. No one knew the secret.

The ten sons grew up strong, fierce, and violent, known publicly as the sons of Andhakavenhu, the Ten Slave Brethren. They eventually began plundering the countryside and even stole goods destined for the king. Complaints reached the court, and Andhakavenhu was summoned and rebuked. When the accusations continued and his life was threatened, he revealed the truth: the ten youths were not his sons but the sons of Upasagara. Alarmed, the king devised a plan to destroy them by arranging a wrestling match, hoping to seize them during the contest.

The wrestling arena was prepared with great splendor, and the famous wrestlers Canura and Mutthika entered the ring. The Ten Brethren also arrived, lavishly adorned with stolen clothes, perfumes, and garlands. In the contest, Baladeva killed both wrestlers with ease. Mutthika, dying, uttered a wish to be reborn as a goblin to take revenge. When the king ordered the arrest of the Ten Brethren, Vasudeva hurled a wheel that killed both King Kamsa and Upakamsa. Terrified, the people submitted to them, and the Ten Brethren seized the throne of Asitanjana.

They brought their parents to the city and set out to conquer the land. They subdued many kingdoms, including Ayojjha, but failed at first to take Dvaravati, a city protected by goblin magic that caused it to rise into the air when enemies approached. Seeking guidance from the ascetic Kanha-dipayana, they learned how to restrain the city. By anchoring it with iron posts and chains, they prevented it from rising and captured it, killing its king.

Having conquered all of India, they ruled from Dvaravati, dividing the realm into ten shares. Remembering their sister Anjana, they made an eleventh share for her. Amkura surrendered his share to her and took up trade instead, living free of taxes.

In time, their parents died, and the brothers themselves had many children. Eventually, Vasudeva’s beloved son died. Overcome with grief, Vasudeva neglected his duties and lay lamenting endlessly. Seeing this, Ghatapandita resolved to cure his brother’s sorrow. He feigned madness, wandering through the city crying out for a hare in the moon. When Vasudeva confronted him and learned that Ghatapandita sought the moon’s hare, he despaired, believing his brother truly insane. Ghatapandita then revealed his purpose, pointing out that mourning for what cannot exist or be recovered is as futile as seeking the hare in the moon. He explained that no power, wealth, or magic could restore the dead to life. Through this insight, Vasudeva’s grief was finally extinguished, and he regained peace of mind.

Much later, the sons of the Ten Brethren tested the ascetic Kanha-dipayana with deceit. Foreseeing the destruction of the royal line and his own imminent death, the ascetic foretold that a knot of acacia wood would destroy them. Disbelieving him, they killed him. When the prophecy later proved true, the acacia wood was burned and its ashes cast into a river, from which an eraka plant grew.

During a feast near this plant, the kings quarreled in drunken sport. The leaves of the eraka plant turned into clubs, and the brothers killed one another until only four survived: Vasudeva, Baladeva, their sister Anjana, and the chaplain. Fleeing, they entered the forest where Mutthika had been reborn as a goblin. He devoured Baladeva. Vasudeva continued on with the others until he was mortally wounded by a hunter named Jara. Knowing death was near, Vasudeva taught a skill to his companions so they could survive, and then died.

Thus all perished except Anjana.

When the Buddha finished the story, he explained that in the past, as in the present, wise counsel had freed people from grief over a son’s death. At the conclusion of the teaching, the lay follower attained the fruit of the First Path. The Buddha then identified the characters of the story, stating that Ananda had been Rohineyya, Sariputta had been Vasudeva, the assembly of followers were the other figures, and he himself had been Ghatapandita.

.... o ....

J455. Mati-Posaka Jātaka -- Câu chuyện về lòng hiếu thảo và đức hạnh của một con voi.

Tóm tắt: Một vị sư chăm sóc cha mẹ nghèo khó của mình, những người không còn ai khác để nương tựa. Khi Đức Phật biết chuyện này, Ngài kể một câu chuyện về một con voi được đưa đến trước mặt nhà vua. Con voi từ chối ăn vì nó đã bỏ lại mẹ mình phía sau. Hiểu được điều đó, nhà vua cho phép con voi trở về chăm sóc mẹ.

.

Câu chuyện này được Đức Phật kể khi ngài đang trú ngụ tại Jetavana, về một vị Trưởng lão hiếu thảo với mẹ. Hoàn cảnh tương tự như câu chuyện về Sama. Nhân dịp này, Đức Phật khuyên các Tỳ kheo không nên bất bình với vị Trưởng lão, giải thích rằng trong quá khứ, những bậc hiền triết, ngay cả khi sinh ra trong loài vật, cũng đã thể hiện lòng hiếu thảo sâu sắc với mẹ, nhịn ăn nhiều ngày khi xa mẹ và chỉ chịu ăn khi gặp lại mẹ. Để minh họa điều này, ngài đã kể một câu chuyện từ quá khứ.

Ngày xưa, khi Brahmadatta là vua của Benares, Bồ Tát được sinh ra làm một con voi trắng tuyệt đẹp ở vùng Himalaya. Ngài có hình dáng và sức mạnh phi thường, và một đàn voi lớn gồm tám vạn con vây quanh ngài. Tuy nhiên, mẹ của ngài bị mù. Vì lòng hiếu thảo, Bồ Tát thường thu thập những loại trái cây rừng ngọt ngào và nhờ những con voi khác mang đến cho mẹ, nhưng chúng lại giữ lấy trái cây cho riêng mình và không cho mẹ ngài chút nào. Khi biết được sự việc này, ngài quyết định rời khỏi đàn và chăm sóc mẹ một mình.

Một đêm, không ai hay biết, ngài dẫn mẹ đi và đưa bà đến núi Candorana. Ở đó, ngài đặt mẹ vào một hang động gần một hồ nước trong vắt và tận tâm chăm sóc bà, cung cấp thức ăn và nước uống, bảo vệ sự an toàn cho bà.

Vào thời điểm đó, một người tiều phu từ Benares bị lạc đường trong rừng và lang thang suốt bảy ngày trong tuyệt vọng. Nghe thấy tiếng kêu của người đàn ông, Bồ Tát nghĩ rằng không nên để một con người gặp nguy hiểm khi ngài đang ở đó. Ngài tiến đến gần người đàn ông, người này sợ hãi bỏ chạy, nhưng Bồ Tát trấn an anh ta và biết được hoàn cảnh của anh ta. Thương xót anh ta, con voi nâng người đàn ông lên lưng, đưa anh ta ra khỏi rừng an toàn và đặt anh ta lên con đường dẫn về khu dân cư. Sau đó, Bồ Tát trở về với mẹ.

Tuy nhiên, người tiều phu lại tỏ ra vô ơn. Sau khi về đến thành phố, anh ta nhớ lại hình dáng của con voi và con đường xuyên rừng. Lúc đó, con voi của nhà vua đã chết, và một lời tuyên bố được đưa ra để tìm một con voi thay thế phù hợp. Người tiều phu báo cho nhà vua rằng anh ta đã nhìn thấy một con voi trắng tuyệt đẹp, thích hợp cho hoàng gia, và đề nghị dẫn những người huấn luyện voi đến chỗ nó. Nhà vua chấp nhận lời đề nghị của người thợ săn và cử một đoàn tùy tùng lớn đi cùng ông ta.

Người thợ săn dẫn họ trở lại hồ nước nơi Bồ Tát đang cho cá ăn. Khi Bồ Tát nhìn thấy người đàn ông tiến đến cùng đoàn tùy tùng của nhà vua, ngài hiểu rằng nguy hiểm này xuất hiện là do người thợ săn. Ngài suy ngẫm về sức mạnh phi thường của mình và biết rằng ngài có thể dễ dàng tiêu diệt toàn bộ đoàn người nếu muốn. Tuy nhiên, ngài cũng hiểu rằng nếu để cơn giận lấn át, điều đó sẽ làm tổn hại đến đức hạnh của mình. Quyết tâm giữ bình tĩnh ngay cả khi bị tổn hại, ngài đứng bất động, cúi đầu tỏ vẻ phục tùng.

Những người huấn luyện voi đã bắt chú voi và dẫn đi suốt bảy ngày đến Benares. Khi Bồ Tát không trở về, người mẹ mù của ngài nhận ra rằng ngài chắc chắn đã bị người của nhà vua bắt đi. Voi mẹ than khóc thảm thiết, đau buồn không chỉ vì mất con mà còn vì sự bất lực của mình khi không có con bên cạnh.

Trong khi đó, tin tức về sự xuất hiện của chú voi được báo trước cho nhà vua, và thành phố được trang hoàng lộng lẫy để chào mừng. Bồ Tát được đặt trong một chuồng voi được trang trí lộng lẫy, xung quanh là vòng hoa và màn che. Nhà vua ra lệnh mang đến cho ngài đủ loại thức ăn ngon, nhưng Bồ Tát từ chối ăn. Ngài không chịu ăn bất cứ thứ gì khi xa mẹ.

Khi nhà vua biết được lý do từ chối này và hiểu được lòng hiếu thảo của chú voi, ngài vô cùng cảm động. Ngài ra lệnh thả Bồ Tát ngay lập tức và cho phép ngài trở về với mẹ. Được giải thoát khỏi cảnh giam cầm, chú voi trở về vùng đồi núi. Đến hồ nước gần nơi ở của mình, ngài dùng vòi hút nước và phun lên người mẹ. Lúc đầu, bà nghĩ rằng trời mưa trái mùa và than thở, tin rằng con trai mình đang ở rất xa. Khi nhận ra rằng con trai đã trở về, voi mẹ vô cùng vui mừng và tạ ơn vì sự an toàn của con và lòng nhân từ của nhà vua.

Nhà vua, ấn tượng bởi đức hạnh và lòng hiếu thảo của Bồ Tát, tiếp tục thể hiện sự kính trọng lớn lao đối với ngài và mẹ ngài. Ngài xây dựng một thị trấn không xa hồ nước và thường xuyên cung cấp nhu cầu cho họ. Sau khi mẹ của Bồ Tát qua đời, chú voi đã thực hiện những bổn phận cần thiết đối với mẹ. Sau đó, ngài đến sống gần một am thất gọi là Karandaka, nơi sau này có năm trăm vị hiền triết tụ họp. Nhà vua cũng mở rộng sự bảo trợ của mình cho họ.

Vì lòng kính trọng, nhà vua đã cho tạc một bức tượng đá giống hình dáng của Bồ Tát và tỏ lòng kính trọng sâu sắc. Mỗi năm, người dân từ khắp Ấn Độ tụ tập ở đó để tổ chức lễ hội được gọi là Lễ hội Voi.

Khi Đức Phật kết thúc bài thuyết pháp này, ngài tuyên bố Tứ Diệu Đế. Cuối bài giảng, vị Trưởng lão phụng dưỡng mẹ đã đạt được sơ quả Nhập Lưu. Đức Phật sau đó xác định các nhân vật trong câu chuyện, giải thích rằng Ananda là nhà vua, Mahamaya là mẹ của chú voi, và chính ngài là chú voi hiếu thảo chăm sóc mẹ mình.

.... o ....

J455. Mati-Posaka Jātaka -- The story of an elephant's virtue and filial devotion.

Summary: A monk cares for his impoverished parents, who have no one else to support them. When the Buddha learns of this, he shares a story about an elephant brought before a king. The elephant refuses to eat because he has left his mother behind. Understanding this, the king permits the elephant to return and care for her.

.

This story was told by the Buddha while he was dwelling at Jetavana, concerning an Elder who supported his mother. The circumstances were similar to those of the Sama Birth. On this occasion, the Buddha instructed the Brethren not to be displeased with the Elder, explaining that in former times wise beings, even when born among animals, had shown deep devotion to their mothers, refusing food for days when separated from them and accepting nourishment only upon seeing them again. To illustrate this, he related a story from the past.

Long ago, when Brahmadatta was king of Benares, the Bodhisatta was born as a magnificent white elephant in the Himalaya region. He was noble in form and strength, and a great herd of eighty thousand elephants surrounded him. His mother, however, was blind. Out of filial devotion, the Bodhisatta would gather sweet wild fruits and have the other elephants carry them to her, but they kept the fruit for themselves and gave her none. When he learned of this neglect, he resolved to leave the herd and care for his mother alone.

One night, unseen by the others, he led his mother away and brought her to Mount Candorana. There he placed her in a cave near a clear lake and devoted himself entirely to her care, providing her with food and water and guarding her well-being.

At that time, a forester from Benares lost his way in the forest and wandered about for seven days in distress. Hearing the man’s cries, the Bodhisatta reflected that it was not right for a human being to come to harm while he was present. He approached the man, who fled in fear, but the Bodhisatta reassured him and learned of his plight. Taking compassion upon him, the elephant lifted the man onto his back, carried him safely out of the forest, and set him on the road that led back to human dwellings. Then the Bodhisatta returned to his mother.

The forester, however, proved ungrateful. After reaching the city, he remembered the elephant’s appearance and the path through the forest. At that time, the king’s state elephant had died, and a proclamation was made seeking a suitable replacement. The forester informed the king that he had seen a splendid white elephant, fit for royal use, and offered to lead the trainers to it. The king accepted his offer and sent a large retinue with him.

The forester led them back to the lake where the Bodhisatta was feeding. When the Bodhisatta saw the man approaching with the royal party, he understood that this danger had arisen because of the forester. He reflected on his own great strength and knew that he could easily destroy the entire company if he chose. Yet he also understood that yielding to anger would damage his virtue. Resolving to remain patient even if harmed, he stood motionless, lowering his head in submission.

The elephant trainers captured him and led him away over the course of seven days to Benares. When the Bodhisatta did not return, his blind mother realized that he must have been taken by the king’s men. She lamented bitterly, grieving not only for her loss but also for her helplessness without him.

Meanwhile, news of the elephant’s arrival was sent ahead to the king, and the city was adorned in celebration. The Bodhisatta was placed in a richly decorated stable, surrounded by garlands and screens. The king ordered that fine food of every kind be brought to him, but the Bodhisatta refused to eat. He would take no food while separated from his mother.

When the king learned the reason for this refusal and understood the elephant’s devotion, he was deeply moved. He ordered that the Bodhisatta be released at once and allowed to return to his mother. Freed from captivity, the elephant made his way back to the hills. Reaching the lake near their dwelling, he drew water with his trunk and sprinkled it over his mother. At first, she thought rain had fallen out of season and lamented, believing her son to be far away. When she realized that he had returned, she rejoiced greatly and gave thanks for his safety and for the king’s compassion.

The king, impressed by the Bodhisatta’s virtue and filial devotion, continued to show him and his mother great honor. He built a town not far from the lake and regularly provided for their needs. After the Bodhisatta’s mother passed away, the elephant performed the duties due to her. He then went to dwell near a hermitage called Karandaka, where five hundred sages later gathered. The king extended his patronage to them as well.

Out of reverence, the king had a stone image made in the likeness of the Bodhisatta and paid it great honor. Each year, people from all over India assembled there to celebrate what became known as the Elephant Festival.

When the Buddha concluded this discourse, he declared the Truths. At the end of the teaching, the Elder who supported his mother attained the fruit of the First Path. The Buddha then identified the characters of the story, explaining that Ananda had been the king, Mahamaya had been the elephant’s mother, and he himself had been the elephant who devotedly cared for his mother.

.... o ....

J456. Junha Jātaka -- Đức Phật giữ lời hứa với Ananda.

Tóm tắt: Đức Phật, lúc này đã cao tuổi, đang tìm kiếm một người thị giả thường trực để giúp đỡ Ngài. Mặc dù nhiều người tình nguyện giúp đỡ, nhưng Đức Phật đều từ chối. Sau đó, trưởng lão Ānanda tình nguyện, yêu cầu tám điều ân huệ, và được bổ nhiệm. Đức Phật tiếp tục kể một câu chuyện về một vị Bà la môn từng xin nhà vua ban cho nhiều điều ân huệ và được nhà vua đáp ứng mọi ước nguyện.

.

Khi đang cư ngụ tại Jetavana, Đức Phật kể một câu chuyện về những ân huệ mà Tôn giả Ananda đã nhận được. Trong hai mươi năm đầu sau khi giác ngộ, Đức Thế Tôn không có một thị giả thường trực nào. Vào những thời điểm khác nhau, nhiều vị trưởng lão đã phục vụ Ngài, bao gồm Nagasamala, Nagita, Upavana, Sunakkhatta, Cunda, Sagala và Meghiya. Khi Đức Phật càng lớn tuổi, những khó khăn bắt đầu nảy sinh. Các thành viên trong Tăng đoàn đôi khi không theo sát Ngài, đi theo những hướng khác nhau, hoặc xử lý bát và y phục của Ngài một cách bất cẩn. Nhận thấy sự cần thiết phải có người phục vụ thường xuyên và đáng tin cậy, Đức Phật đã chỉ thị cho cộng đồng chọn một vị tỳ kheo sẽ phục vụ Ngài liên tục.

Nhiều vị trưởng lão cao tuổi đã tự nguyện đảm nhận nhiệm vụ này, nhưng Đức Phật đều từ chối tất cả lời đề nghị của họ. Theo đề nghị của các vị tỳ kheo, Tôn giả Ananda được yêu cầu đảm nhận vị trí này. Ananda chỉ đồng ý phục vụ với những điều kiện cụ thể. Ông yêu cầu bốn điều kiện hạn chế: rằng ông sẽ không nhận y phục, thức ăn cúng dường, chỗ ở riêng của Đức Phật, hoặc được tự động bao gồm trong các lời mời dành cho Đức Phật. Ông cũng yêu cầu bốn đặc quyền: rằng Đức Phật sẽ đi cùng ông khi Ananda được mời, rằng Ananda có thể giới thiệu những vị khách đến từ những vùng xa xôi, rằng ông có thể tiếp cận Đức Phật ngay lập tức bất cứ khi nào có nghi ngờ, và rằng bất kỳ lời dạy nào được đưa ra khi Ananda vắng mặt sẽ được lặp lại cho ông khi ông trở về. Tám ân huệ này, bốn điều hạn chế và bốn đặc quyền, đã được chấp thuận.

Sau đó, Ananda đã phục vụ liên tục với tư cách là thị giả của Đức Phật trong hai mươi lăm năm. Thông qua sự phục vụ này, ông đã đạt được sự nổi bật về nhiều mặt và nhận được bảy phước lành lớn: sự thông hiểu giáo lý, sự rõ ràng trong giảng dạy, sự hiểu biết về nguyên nhân, kỹ năng trong việc đặt câu hỏi, cư trú ở những nơi linh thiêng, lòng sùng kính được thức tỉnh, và tiềm năng trở thành Phật trong tương lai. Sau khi nhận được tám ân huệ trước sự chứng kiến ​​của Đức Phật, ông trở nên nổi tiếng rộng rãi trong cộng đồng Phật giáo và tỏa sáng giữa các đệ tử với sự xuất sắc phi thường.

Một ngày nọ, các vị tỳ kheo tụ tập trong Chánh điện và nói về việc Đức Phật đã đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của Ananda như thế nào. Khi được thông báo về cuộc thảo luận này, Đức Phật giải thích rằng đây không phải là lần đầu tiên Ananda được thỏa mãn với những ân huệ. Trong những kiếp trước, bất cứ điều gì Ananda yêu cầu một cách chính đáng đều được ban cho. Để minh họa điều này, Đức Phật đã kể một câu chuyện từ một kiếp trước. Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Benares, con trai ông, hoàng tử Junha, còn được gọi là Hoàng tử Ánh Trăng, đang theo học ở Takkasila. Một đêm nọ, sau khi rời khỏi nhà thầy giáo trong bóng tối, hoàng tử vô tình va phải một vị Bà La Môn đang trở về sau khi đi khất thực và làm vỡ bát khất thực của ông ta. Vị Bà La Môn ngã xuống, và hoàng tử, vì lòng thương xót, đã giúp ông ta đứng dậy. Không thể bồi thường ngay lập tức, hoàng tử tự giới thiệu mình và hứa rằng vị Bà La Môn có thể đến đòi bồi thường khi ông trở về vương quốc của mình.

Sau khi hoàn thành việc học, hoàng tử trở về Benares và thể hiện tài năng của mình trước vua cha. Vua rất hài lòng và phong ông làm vua. Với tư cách là vua Junha, ông cai trị một cách công bằng. Khi vị Bà La Môn nghe tin về lễ đăng quang của hoàng tử, ông đã đến Benares để đòi lại giá trị của bữa ăn đã mất. Nhìn thấy nhà vua trong đoàn rước lễ, ông cố gắng thu hút sự chú ý của nhà vua về cuộc gặp gỡ trước đó. Khi cuối cùng được nhận ra, vị Bà La Môn nhắc nhở nhà vua về cuộc gặp gỡ của họ ở Takkasila và về việc làm vỡ bát khất thực của ông.

Nhớ lại sự việc, vua Junha thừa nhận nghĩa vụ và suy ngẫm về tầm quan trọng của lòng biết ơn và sự trung thực đối với những lời hứa trong quá khứ. Để giữ lời hứa trước đó, ông đã ban tặng cho vị Bà La Môn những món quà hào phóng, bao gồm làng mạc, người hầu, gia súc, đồ trang sức bằng vàng và những người vợ có địa vị tương đương. Nhà vua còn ban cho vị Bà La Môn nhiều vinh dự lớn lao.

Kết thúc câu chuyện, Đức Phật giải thích rằng hành động thực hiện lời hứa này không phải là điều mới mẻ. Trong kiếp trước đó, Ananda chính là vị Bà La Môn, và Đức Phật chính là vua Junha.

.... o ....

J456. Junha Jātaka -- The Buddha kept his promise to Ananda.

Summary: The Buddha, now advancing in age, seeks a permanent attendant to assist him. Although many offer their help, the Buddha declines each one. Elder Ānanda then volunteers, requesting eight boons, and is appointed. The Buddha proceeds to share a story about a brahmin who once asked a king for several boons and was granted his heart’s desires.

.

While dwelling at Jetavana, the Buddha told a story concerning the boons received by Elder Ananda. During the first twenty years after his enlightenment, the Blessed One did not have a single permanent attendant. At different times various elders served him, including Nagasamala, Nagita, Upavana, Sunakkhatta, Cunda, Sagala, and Meghiya. As the Buddha grew older, difficulties arose. Members of the Order sometimes failed to follow him closely, went in different directions, or handled his bowl and robe carelessly. Recognizing the need for constant and reliable service, the Buddha instructed the community to choose one monk who would attend him continually.

Many senior elders offered themselves for this duty, but the Buddha declined all their requests. At the suggestion of the brethren, Elder Ananda was asked to seek the position. Ananda agreed to serve only under specific conditions. He requested four restraints: that he should not receive the Buddha’s personal robes, food offerings, lodging, or automatic inclusion in invitations meant for the Buddha. He also requested four privileges: that the Buddha would accompany him when Ananda himself was invited, that Ananda might introduce visitors arriving from distant regions, that he might approach the Buddha immediately whenever doubts arose, and that any teaching given in Ananda’s absence would be repeated to him upon his return. These eight boons, four negative and four positive, were granted.

Thereafter, Ananda served continuously as the Buddha’s attendant for twenty-five years. Through this service he attained distinction in several ways and received seven great blessings: mastery of doctrine, clarity of instruction, understanding of causes, skill in inquiry, residence in holy places, awakened devotion, and the potential for future Buddhahood. Having received the eight boons in the presence of the Buddha, he became widely renowned within the Buddhist community and shone among the disciples with exceptional brilliance.

One day, monks gathered in the Hall of Truth and spoke about how fully the Buddha had satisfied Ananda by granting his requests. When informed of this discussion, the Buddha explained that this was not the first time Ananda had been satisfied with boons. In past ages as well, whatever Ananda had rightly asked had been granted. To illustrate this, the Buddha related a story from a former life.

Long ago, when King Brahmadatta ruled in Benares, his son Prince Junha, known as the Moonlight Prince, was studying at Takkasila. One night, after leaving his teacher’s house in darkness, the prince accidentally collided with a brahmin returning from alms rounds and broke the man’s alms bowl. The brahmin fell, and the prince, moved by compassion, helped him up. Unable to provide immediate compensation, the prince identified himself and promised that the brahmin could seek repayment once he had returned to his kingdom.

After completing his studies, the prince returned to Benares and displayed his learning to his father. Pleased, the king crowned him ruler. As King Junha, he governed righteously. When the brahmin later heard of the prince’s coronation, he traveled to Benares to recover the value of his lost meal. Seeing the king in ceremonial procession, he attempted to draw attention to his earlier encounter. When this was finally recognized, the brahmin reminded the king of their meeting at Takkasila and of the injury done to his alms bowl.

Recalling the incident, King Junha acknowledged the obligation and reflected on the importance of gratitude and faithfulness to past deeds. Honoring the earlier promise, he bestowed upon the brahmin generous gifts, including villages, servants, cattle, gold ornaments, and wives of equal rank. The king further elevated the brahmin with great honor.

At the conclusion of the story, the Buddha explained that this act of fulfilling a promised boon was not new. In that former life, Ananda had been the brahmin, and the Buddha himself had been King Junha.

.... o ....

J457. Dhamma Jātaka -- Hãy tránh sát sinh, đừng làm sai trái và luôn luôn hiếu thảo với cha mẹ.

Tóm tắt: Các vị sư đang thảo luận về việc Devadatta đã chống đối Đức Phật và bị đất nuốt chửng. Sau đó, Đức Phật kể một câu chuyện về hai vị thần đưa ra lời khuyên trái ngược nhau; vị thần khuyên đi theo con đường xấu xa cuối cùng đã rơi xuống địa ngục.

.

Khi đang cư ngụ tại Jetavana, Đức Phật kể một câu chuyện giải thích lý do Devadatta bị đất nuốt chửng. Các vị tỳ kheo đã tụ tập trong Đại điện Chánh pháp và đang bàn luận về việc Devadatta, sau khi chống lại Đức Như Lai, đã gặp phải kết cục khủng khiệt này. Khi Đức Phật biết được cuộc thảo luận của họ, Ngài giải thích rằng số phận của Devadatta là kết quả của việc chống lại uy quyền tối cao của Ngài, và đây không phải là lần đầu tiên hành động như vậy dẫn đến hậu quả tương tự. Trong một kiếp trước, Devadatta đã chống lại uy quyền của chính nghĩa và cũng bị đất nuốt chửng và tái sinh vào địa ngục sâu nhất. Để minh họa điều này, Đức Phật kể một câu chuyện từ quá khứ.

Trong một thời xa xưa, khi Brahmadatta trị vì ở Benares, Bồ Tát tái sinh trong cõi trời dục giới và được gọi là Dhamma, hiện thân của Chánh nghĩa. Cùng lúc đó, Devadatta tái sinh thành Adhamma, hiện thân của Tà ác. Vào ngày rằm, khi mọi người khắp các làng mạc, thị trấn và kinh đô đang nghỉ ngơi sau bữa ăn tối, Dhamma xuất hiện trên bầu trời, đứng trên một cỗ xe trời được trang hoàng lộng lẫy và được hộ tống bởi vô số thiên thần. Bay vòng quanh đất nước theo hướng phải, ngài khuyên mọi người tránh sát sinh, tránh mọi con đường làm điều ác, kính trọng cha mẹ và tuân theo con đường chánh trực nơi thân khẩu và ý, dạy rằng hành thiện như vậy sẽ dẫn đến sự tái sinh trên thiên giới và vinh quang vĩnh cửu.

Cùng lúc đó, Adhamma xuất hiện theo cách tương tự nhưng lại dạy điều ngược lại. Hắn khuyên mọi người hủy diệt sự sống và theo đuổi mọi con đường hành vi xấu xa, và hắn đi khắp đất nước theo hướng trái, truyền bá những giáo lý trái ngược với chánh nghĩa.

Cuối cùng, cỗ xe trời của Dhamma và Adhamma gặp nhau trên bầu trời. Các tùy tùng của họ tự giới thiệu và tách ra hai bên, nhưng Adhamma từ chối nhường đường. Khi Dhamma khẳng định sự ưu tiên của chánh nghĩa và sự tối thượng của điều đúng đắn và công bằng, Adhamma dựa vào sức mạnh, sự kiêu ngạo và sự thách thức, bác bỏ bất kỳ tuyên bố nào về uy quyền đạo đức. Cuộc đối đầu leo ​​thang khi Adhamma kiên quyết chống lại trật tự của chánh nghĩa.

Ngay khoảnh khắc Dhamma khẳng định quyết tâm chịu đựng điều ác mà không khuất phục, Adhamma mất thăng bằng trên cỗ xe của mình. Mặt đất dưới chân hắn nứt ra, và hắn lao thẳng xuống lòng đất, biến mất khỏi tầm mắt và được tái sinh ở tầng địa ngục thấp nhất. Không có trận chiến thể chất nào diễn ra, vì sự sai trái đã sụp đổ dưới sức nặng của chính nó khi đối diện với sự chính trực kiên định.

Quan sát kết quả này bằng trí tuệ hoàn hảo, Dhamma tiếp tục con đường của mình trong chiến thắng, được trang bị chân lý và tràn đầy niềm vui. Số phận của Adhamma là một lời cảnh báo rằng những kẻ không tôn kính cha mẹ, các bậc hiền triết và người đức hạnh, và những kẻ từ bỏ bổn phận đạo đức, sẽ nhanh chóng rơi vào sự hủy diệt, ngay cả từ thế giới này. Những người giữ vững sự chính trực và hoàn thành nghĩa vụ của mình sẽ thăng tiến đến cõi trời.

Khi Đức Phật kết thúc bài thuyết pháp này, Ngài giải thích rằng sự thù địch và sự sụp đổ của Devadatta không chỉ giới hạn trong kiếp sống hiện tại. Trong thời xa xưa đó, Devadatta chính là Adhamma, và những người theo hắn là những kẻ hầu cận của Adhamma, trong khi chính Đức Phật là Dhamma, và các đệ tử của Đức Phật là những người hầu cận của Dhamma.

.... o ....

J457. Dhamma Jātaka -- Avoid taking life, steer clear of all forms of wrongdoing, and always honor your parents.

Summary: The monks are discussing how Devadatta opposed the Buddha and was swallowed by the earth. The Buddha then shares a story about two gods who offered conflicting advice; the god who suggested an evil path ultimately descended into hell.

.

While dwelling at Jetavana, the Buddha told a story explaining how Devadatta came to be swallowed up by the earth. The monks had gathered in the Hall of Truth and were speaking about how Devadatta, having turned against the Tathagata, met this dreadful end. When the Buddha learned of their discussion, he explained that Devadatta’s fate was the result of striking against his victorious authority, and that this was not the first time such a deed had brought the same consequence. In an earlier age, Devadatta had struck against the authority of righteousness itself and had likewise been swallowed up by the earth and reborn in the deepest hell. To illustrate this, the Buddha related a story from the past.

In a distant age, when Brahmadatta ruled in Benares, the Bodhisatta was reborn among the gods of the realm of sense and was known as Dhamma, the embodiment of Right. At the same time, Devadatta was reborn as Adhamma, the embodiment of Wrong. On the full-moon fast day, when people throughout villages, towns, and the royal capital were resting after their evening meals, Dhamma appeared before them in the sky, standing in a celestial chariot adorned with divine splendor and attended by a multitude of heavenly beings. Circling the land in a rightward course, he urged people to refrain from taking life, to avoid all paths of wrongdoing, to honor their parents, and to follow the threefold course of righteousness, teaching that such conduct led to heavenly rebirth and lasting glory.

At the same time, Adhamma appeared in a similar manner but taught the opposite. He urged people to destroy life and to pursue all paths of evil conduct, and he traveled across the land in a leftward course, spreading teachings opposed to righteousness.

Eventually, the celestial chariots of Dhamma and Adhamma met face to face in the sky. Their attendants identified themselves and parted to either side, but Adhamma refused to yield the way. As Dhamma asserted the precedence of righteousness and the primacy of what is right and just, Adhamma relied on force, arrogance, and defiance, rejecting any claim of moral authority. The confrontation escalated as Adhamma persisted in opposing the order of righteousness.

At the very moment when Dhamma affirmed his resolve to endure wrongdoing without yielding to it, Adhamma lost his footing in his chariot. The earth beneath him opened, and he plunged headlong into the ground, disappearing from sight and being reborn in the lowest hell. No physical battle took place, for wrongdoing collapsed under its own weight when confronted by steadfast righteousness.

Observing this outcome through perfect wisdom, Dhamma continued on his way in triumph, armored with truth and accompanied by joy. The fate of Adhamma served as a warning that those who fail to honor parents, sages, and the virtuous, and who abandon moral duty, fall swiftly into ruin, even from this very world. Those who uphold righteousness and fulfill their obligations rise onward to heavenly realms.

When the Buddha concluded this discourse, he explained that Devadatta’s hostility and downfall were not limited to the present life. In that former time, Devadatta had been Adhamma, and his followers were the attendants of Adhamma, while the Buddha himself had been Dhamma, and the Buddha’s disciples had been the attendants of Dhamma.

.... o ....

J458. Udaya Jātaka -- Tái sinh trên cõi trời cần độ lượng bố thí, lòng từ bi và giữ giới ở thân, khẩu, ý.

Tóm tắt: Một vị sư lui sụt, muốn rời bỏ tu viện. Đáp lại, Đức Phật kể một câu chuyện về hai vị thần được tái sinh – một nam và một nữ. Họ sống chung với nhau trong sự trong sạch cho đến khi vị thần nam qua đời và được tái sinh thành Sakka. Sau đó, Sakka đến thăm người vợ cũ của mình và thử cố gắng cám dỗ bà, nhưng bà vẫn kiên định giữ gìn sự trong trắng.

.

Khi đang cư ngụ tại Jetavana, Đức Phật kể một câu chuyện về một vị tỳ kheo đã sa ngã vào lối sống thế tục. Hoàn cảnh của sự việc này được giải thích liên quan đến câu chuyện về sự ra đời của Kusa. Đức Phật khiển trách vị tỳ kheo vì đã từ bỏ giáo lý dẫn đến giải thoát chỉ vì ham muốn dục vọng, và Ngài nhắc nhở cộng đồng rằng những người khôn ngoan thời xưa, ngay cả khi sống giữa vẻ đẹp và cám dỗ lớn lao, vẫn kiềm chế các giác quan của mình bằng kỷ luật kiên định. Để minh họa cho sự thật này, Ngài kể một câu chuyện từ thời xa xưa.

Ngày xưa, khi vua xứ Kasi trị vì từ thành phố thịnh vượng Surundha, một thành phố rộng mười hai dặm về mọi hướng, ông không có con. Vì vậy, ông ra lệnh cho các hoàng hậu cầu nguyện để có con. Lúc đó, Bồ Tát giáng trần từ cõi trời Brahma và được thụ thai trong bụng của hoàng hậu chính thất. Vì sự ra đời của ngài mang lại niềm vui cho mọi người, ngài được đặt tên là Udayabhadda, có nghĩa là “Được chào đón”. Khi hoàng tử còn nhỏ, một chúng sinh khác cũng giáng trần từ cõi trời Brahma và được thụ thai trong bụng của một hoàng hậu khác. Đứa trẻ này là một bé gái và cũng được đặt tên là Udayabhadda.

Khi hoàng tử đến tuổi trưởng thành, ngài thông thạo tất cả các lĩnh vực học vấn và có phẩm hạnh vô cùng thanh khiết. Ngài không có khuynh hướng ham muốn dục vọng và giữ gìn sự trong trắng ngay cả trong suy nghĩ và giấc mơ. Nhà vua muốn phong ngài làm vua và tổ chức những cuộc vui chơi phù hợp với hoàng gia, nhưng Bồ Tát từ chối, tuyên bố không ham muốn quyền lực hay sự hưởng thụ. Bị thúc ép nhiều lần, ngài đã cho người làm một bức tượng phụ nữ bằng vàng đỏ và gửi cho cha mẹ, nói rằng chỉ khi tìm được một người phụ nữ tương xứng với bức tượng đó, ngài mới chấp nhận ngai vàng.

Bức tượng được gửi đi khắp Ấn Độ, nhưng không tìm thấy người phụ nữ nào sánh kịp. Cuối cùng, nhà vua cho công chúa Udayabhadda trẻ tuổi được trang điểm và đứng cạnh bức tượng, và vẻ đẹp của nàng vượt trội hơn cả bức tượng. Mặc dù trái với ý muốn của họ, hoàng tử và công chúa, là anh em cùng cha khác mẹ, đã kết hôn, và Bồ Tát được phong làm vua.

Mặc dù sống chung như vợ chồng, họ vẫn sống cuộc sống hoàn toàn trong trắng. Sau khi vua và hoàng hậu qua đời, Bồ Tát cai trị vương quốc, nhưng hai người vẫn tiếp tục sống chung một phòng mà không bao giờ khuất phục trước dục vọng hay thậm chí nhìn nhau với ánh mắt thèm muốn. Họ đã thề nguyện long trọng rằng ai trong hai người chết trước sẽ trở về từ kiếp sau để báo cho người kia biết về sự tái sinh của mình.

Sau khi trị vì bảy trăm năm, Bồ Tát qua đời. Vì không có vị vua nào khác, mệnh lệnh của công chúa được thực hiện và vương quốc được cai trị bởi các vị quan. Bồ Tát tái sinh thành Sakka, vua của các vị thần, ở cõi trời Ba mươi ba. Trong bảy ngày, bị choáng ngợp bởi vẻ huy hoàng thần thánh, ngài không nhớ đến kiếp trước của mình. Sau đó, nhớ lại lời hứa, ngài quyết định trở về để thử thách đức hạnh của công chúa và thực hiện lời hứa của mình.

Vào thời đó, tuổi thọ con người được cho là mười nghìn năm. Một đêm nọ, khi cung điện được canh gác cẩn mật và công chúa ngồi một mình tĩnh tâm suy ngẫm về đức hạnh của mình trong căn phòng cao quý, Sakka xuất hiện trước mặt nàng mang theo những món quà vô cùng quý giá. Những đêm tiếp theo, ngài trở lại, mỗi lần lại tặng những món quà ít giá trị hơn, nhằm thử xem liệu sự giàu sang hay dục vọng có thể làm lung lay quyết tâm của nàng hay không. Công chúa vẫn không hề nao núng, từ chối tham gia hoặc nhượng bộ bất cứ điều gì.

Cuối cùng, tiết lộ sự vô thường của sắc đẹp và sự ưu việt của sự thanh tịnh đạo đức, Sakka hướng dẫn nàng con đường dẫn đến sự tái sinh trên thiên giới. Khi nàng bày tỏ mong muốn biết thêm về con đường này, ngài giải thích về cách hành xử mà chúng sinh đạt được thiên giới, bao gồm sự kiềm chế thân, khẩu, ý, sự rộng lượng, lòng tốt và lòng trung thành. Cuối cùng, ngài tiết lộ danh tính thực sự của mình là Udayabhadda, hoàn thành lời thề đã hứa từ lâu. Sau đó, ngài hướng dẫn nàng thêm về sự vô thường, bản chất phù du của tuổi trẻ và sự giàu có, sự chắc chắn của cái chết và sự cần thiết của sự chính trực siêng năng.

Vô cùng xúc động và quyết tâm, công chúa từ bỏ cuộc sống trần tục. Sau khi Sakka rời đi, nàng giao lại vương quốc cho các vị quan và trở thành một người tu hành trong một khu vườn xinh đẹp trong thành phố. Sống một cuộc sống chính trực, nàng qua đời đúng lúc và tái sinh ở cõi trời Ba mươi ba làm thị giả của Bồ Tát.

Khi Đức Phật kết thúc bài thuyết pháp này, ngài tuyên bố các Chân lý. Kết thúc bài giảng, vị tỳ kheo đã sa ngã được chứng đắc sơ quả Nhập Lưu. Sau đó, Đức Phật xác định kiếp trước, giải thích rằng vào thời đó, công chúa là mẹ của Rahula, và chính ngài là Sakka.

.... o ....

J458. Udaya Jātaka -- The path to heavenly rebirth requires generosity, kindness, and disciplined restraint of body, speech, and mind.

Summary: A monk, feeling dissatisfied with monastic life, expresses his desire to leave it. In response, the Buddha shares a story about two gods who were reborn—one male and one female. They lived together in chastity until the male god passed away and was reborn as Sakka. Later, Sakka visited his former wife and attempted to tempt her, but she remained steadfast in her chastity.

.

While dwelling at Jetavana, the Buddha told a story concerning a monk who had fallen back into worldly conduct. The circumstances of this occasion are explained in connection with the Kusa Birth. The Buddha reproved the monk for abandoning a teaching that leads to liberation merely for the sake of sensual desire, and he reminded the community that wise men of old, even while living amid great beauty and temptation, had restrained their senses with unwavering discipline. To illustrate this truth, he related a story from a former age.

Long ago, when the king of Kasi ruled from his prosperous city of Surundha, a city measuring twelve leagues in every direction, he had no children. He therefore instructed his queens to pray for offspring. At that time, the Bodhisatta descended from the Brahma world and was conceived in the womb of the chief queen. Because his birth brought joy to the people, he was named Udayabhadda, meaning “Welcome.” When the prince was still young, another being descended from the Brahma world and was conceived in the womb of a different queen. This child was a girl and was also given the name Udayabhadda.

When the prince came of age, he mastered all branches of learning and possessed extraordinary purity of conduct. He had no inclination toward sensual desire and remained chaste even in thought and dream. The king wished to consecrate him as ruler and to provide amusements befitting royalty, but the Bodhisatta refused, declaring no desire for sovereignty or indulgence. Pressed repeatedly, he responded by having a woman’s figure fashioned in red gold and sent to his parents, saying that only upon finding a woman equal to that image would he accept the throne.

The image was sent throughout India, but no woman comparable to it was found. At last, the king caused the young princess Udayabhadda to be adorned and presented beside the image, and her beauty surpassed it. Though against their wishes, the prince and the princess, who were siblings by different mothers, were married, and the Bodhisatta was anointed king.

Though living together as husband and wife, they led lives of perfect chastity. After the deaths of the king and queen, the Bodhisatta ruled the kingdom, yet the two continued to share a single chamber without ever yielding to desire or even looking upon one another with lust. They made a solemn vow that whichever of them should die first would return from the next existence to inform the other of their rebirth.

After reigning for seven hundred years, the Bodhisatta passed away. Since there was no other king, the princess’s commands were carried out and the kingdom was governed by the ministers. The Bodhisatta was reborn as Sakka, king of the gods, in the Heaven of the Thirty-three. For seven days, overwhelmed by divine splendor, he did not recall his former life. Afterward, remembering his promise, he resolved to return and test the virtue of the princess and to fulfill his pledge.

At that time human life was said to last ten thousand years. One night, while the palace was secured and the princess sat alone in quiet contemplation of her virtue in her lofty chamber, Sakka appeared before her bearing gifts of great value. On successive nights he returned, each time offering lesser riches, seeking to test whether wealth or desire could shake her resolve. The princess remained unmoved, refusing to engage or yield in any way.

Finally, revealing the impermanence of beauty and the superiority of moral purity, Sakka instructed her in the path leading to heavenly rebirth. When she expressed a wish to know more of this path, he explained the conduct by which beings attain heaven, including restraint of body, speech, and mind, generosity, kindness, and faithfulness. At last, he revealed his true identity as Udayabhadda, fulfilling the vow made long ago. He then instructed her further on impermanence, the fleeting nature of youth and wealth, the certainty of death, and the necessity of diligent righteousness.

Deeply moved and resolved, the princess renounced worldly life. After Sakka departed, she entrusted the kingdom to her ministers and became a recluse in a beautiful park within the city. Living a righteous life, she passed away in due time and was reborn in the Heaven of the Thirty-three as an attendant of the Bodhisatta.

When the Buddha ended this discourse, he declared the Truths. At the conclusion of the teaching, the monk who had fallen away was established in the fruit of the First Path. The Buddha then identified the birth, explaining that in that former time the princess had been Rahula’s mother, and he himself had been Sakka.

.... o ....

J459. Paniya Jātaka -- Tất cả niệm bất thiện phải được kiềm chế ngay khi chúng khởi lên.

Tóm tắt: Một số vị sư vẫn còn mang trong mình những suy nghĩ sai trái. Đức Phật kể một câu chuyện về những người hiền triết thời xưa, sau khi phạm phải một lỗi nhỏ, họ đã vô cùng hối hận, đạt được sự giác ngộ sâu sắc và cuối cùng trở thành Phật Độc Giác.

.

Khi đang trú ngụ tại Jetavana, Đức Phật kể một câu chuyện về việc chế ngự những dục vọng xấu xa. Lúc bấy giờ, năm trăm cư dân thành Savatthi, những gia chủ là bạn bè và người ủng hộ của Đức Phật, sau khi nghe giáo pháp, đã từ bỏ thế tục và xuất gia làm tỳ kheo. Sống cùng nhau trong ngôi nhà lát gạch vàng, họ đã để cho những ý nghĩ bất thiện nảy sinh trong tâm trí vào ban đêm. Theo chỉ thị của Đức Phật, Tôn giả Ananda đã tập hợp chúng tăng. Đức Phật nói chuyện với các vị tỳ kheo một cách chung chung, không chỉ đích danh ai, và dạy rằng không có tội lỗi nào là nhỏ nhặt và mọi ý nghĩ bất thiện đều phải được kiềm chế ngay khi nó nảy sinh. Ngài nhắc nhở họ rằng ngay cả trước khi Đức Phật xuất hiện, những người hiền triết thời xưa đã chế ngự được dục vọng của mình và đạt được giác ngộ như những vị Phật độc giác. Để minh họa điều này, Ngài kể một câu chuyện từ thời xa xưa.

Ngày xưa, khi Brahmadatta trị vì ở Benares, có hai người bạn thân sống trong một ngôi làng thuộc vương quốc Kasi, cùng nhau làm việc trên đồng ruộng. Họ mang theo những bình nước, đặt chúng sang một bên trong khi cày cấy. Khi khát, họ uống nước từ những bình đó. Tuy nhiên, một trong hai người đã lén lút giữ nước trong bình của mình và uống nước từ bình của người bạn. Tối hôm đó, sau khi tắm rửa và suy ngẫm về hành vi của mình, anh ta xem xét lại những việc làm trong ngày và nhận ra rằng mình đã phạm lỗi khi lấy những thứ không được cho phép. Tràn đầy hối hận, anh ta quyết tâm kiềm chế những hành vi sai trái như vậy, hiểu rằng ngay cả một lỗi nhỏ cũng có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng nếu để nó phát triển. Nhờ sự hối hận chân thành và sự cảnh giác này, anh ta đã phát triển trí tuệ sâu sắc và đạt được giác ngộ của một vị Phật độc giác.

Khi người bạn sau đó thúc giục anh ta trở về nhà, người đàn ông mới giác ngộ đã từ bỏ cuộc sống thế tục hoàn toàn. Ngay lúc đó, những dấu hiệu của một người cư sĩ biến mất khỏi anh ta, y phục và bình bát của một vị tu sĩ xuất hiện, và anh ta bay lên không trung. Sau khi giảng dạy ngắn gọn, anh ta rời đi để sống trong hang Nandamula trên dãy Himalaya.

Ở một ngôi làng khác thuộc Kasi, có một chủ đất, khi đang ngồi ở chợ, nhìn thấy một người đàn ông dẫn vợ đi. Bị dục vọng nhất thời chế ngự khi nhìn thấy vẻ đẹp của người phụ nữ, ông ta ngay lập tức nhận ra sự nguy hiểm của việc để cho dục vọng đó bén rễ. Bị dày vò bởi sự hối hận và quyết tâm, ông đã kiềm chế tâm trí, phát triển trí tuệ và đạt được giác ngộ của một vị Phật độc giác. Bay lên không trung, ông giảng dạy ngắn gọn rồi trở về nơi ẩn cư trên núi.

Ở một nơi khác thuộc Kasi, một người cha và con trai đang cùng nhau đi đường và gặp phải bọn cướp đang mai phục ở bìa rừng. Biết được tục lệ của bọn cướp là bắt giữ một người thân và thả người kia đi để mang tiền chuộc, hai cha con đã thỏa thuận phủ nhận mối quan hệ của mình. Khi bị hỏi, họ đã nói dối rằng không có mối liên hệ nào với nhau. Sau khi đi qua khu rừng an toàn và tắm rửa vào buổi tối, người con trai suy ngẫm về lời nói dối mà mình đã nói. Nhận ra sự nghiêm trọng của lời nói dối và sợ hãi hậu quả của nó, anh ta quyết tâm thanh lọc hành vi của mình. Nhờ quyết tâm này, anh ta đã đạt được trí tuệ, giác ngộ thành Phật độc giác, giảng dạy cho cha mình khi đang lơ lửng trên không trung, và bay đến hang động Nandamula.

Ở một ngôi làng khác, có một địa chủ giàu có từng cấm giết hại động vật. Khi đến thời điểm cúng tế thần linh theo tục lệ, người dân đã xin phép ông được giết mổ động vật để cúng tế. Ông cho phép họ tiếp tục như trước. Nhìn thấy số lượng lớn sinh vật bị giết chết do sự cho phép của mình, ông cảm thấy vô cùng hối hận, nhận ra rằng cái chết của chúng là do quyết định của ông. Đứng bên cửa sổ, ông suy ngẫm về lỗi lầm này, phát triển trí tuệ, đạt được giác ngộ Phật độc giác, giảng dạy ngắn gọn rồi bay đến hang động trên núi.

Một chủ đất khác ở Kasi đã cấm bán rượu mạnh. Khi người dân phản đối rằng đã đến lúc tổ chức lễ hội uống rượu truyền thống của họ, ông ta lại cho phép họ hành động như trước đây. Lễ hội dẫn đến say xỉn, bạo lực, thương tích và nhiều loại khổ đau khác. Chứng kiến ​​những tai hại này, chủ đất nhận ra rằng sự cho phép của mình đã tạo điều kiện cho những điều xấu xa đó xảy ra. Mặc dù lỗi lầm của ông ta dường như nhỏ bé, ông ta vẫn cảm thấy vô cùng hối hận. Nhờ sự suy ngẫm này, ông ta đạt được sự thấu hiểu và giác ngộ của một vị Phật Độc Giác, khuyên nhủ mọi người hãy cảnh giác, và rời đi đến hang Nandamula.

Một thời gian sau, năm vị Phật Độc Giác cùng nhau đến Benares để khất thực. Với y phục chỉnh tề và thái độ điềm tĩnh, họ tiến đến cổng cung điện hoàng gia. Nhà vua, nhìn thấy họ, tràn đầy niềm vui và lòng kính trọng. Ông chào đón họ, dâng cúng thức ăn, y phục và thuốc men, và lắng nghe chăm chú khi họ giải thích rằng mỗi người đều đã từ bỏ thế tục sau khi nhận ra ngay cả một lỗi lầm đạo đức nhỏ nhất và sợ hãi hậu quả nếu để nó phát triển. Sự kiềm chế và trí tuệ của họ đã gây ấn tượng sâu sắc với nhà vua.

Sau khi họ rời đi, chính nhà vua cũng trở nên chán ghét những thú vui trần tục. Mặc dù vẫn ăn những món ăn ngon, ông ta tránh xa sự hưởng thụ, tránh tiếp xúc với phụ nữ và dành thời gian cho việc thiền định một mình. Nhìn chằm chằm vào một bức tường trắng, ông ta nhập định sâu và trải nghiệm niềm hỷ lạc sâu sắc. Tràn đầy sự chán ghét đối với dục vọng, ông ta quyết định từ bỏ cuộc sống thế tục hoàn toàn.

Bất chấp những lo lắng và than thở của triều đình, nhà vua giao phó vương quốc cho các vị quan, từ bỏ ngôi vị hoàng gia và bay lên không trung đến dãy Himalaya. Ở đó, tại một nơi yên bình và tươi đẹp, ông ta xây dựng một am thất và sống cuộc đời của một vị hiền triết. Cuối đời, ông ta được tái sinh vào cõi Brahma.

Sau khi kết thúc bài thuyết pháp này, Đức Phật tuyên bố rằng không có tội lỗi nào quá nhỏ để có thể bỏ qua và người khôn ngoan sẽ kiềm chế ngay cả những xung động bất thiện nhỏ nhất. Sau đó, Ngài tuyên bố Tứ Diệu Đế. Khi kết thúc bài giảng, năm trăm vị tỳ kheo đã đạt được quả vị A-la-hán. Cuối cùng, Đức Phật xác định các kiếp sống trong quá khứ, giải thích rằng các vị Phật Độc Giác đã đạt được giải thoát tối thượng, mẹ của Rahula là hoàng hậu, và chính Ngài là nhà vua.

.... o ....

J459. Paniya Jātaka -- Every unwholesome thought must be restrained as soon as it arises.

Summary: Some monks harbor wrongful thoughts. The Buddha shares a story about the wise individuals of old who, after committing a minor wrong, deeply regretted it, gained profound insight, and ultimately became Paccekabuddhas.

.

While dwelling at Jetavana, the Buddha told a story concerning the subduing of evil passions. At that time, five hundred citizens of Savatthi, householders who were friends and supporters of the Tathagata, had heard the teaching, renounced the world, and been ordained as monks. Living together in the House of the Golden Pavement, they allowed unwholesome thoughts to arise in their minds during the night. At the Buddha’s direction, the Venerable Ananda assembled the community. The Buddha addressed the monks collectively, without singling anyone out, and taught that no sin is insignificant and that every unwholesome thought must be restrained as soon as it arises. He reminded them that even before the appearance of a Buddha, wise men of old subdued their passions and attained enlightenment as Pacceka-Buddhas. To illustrate this, he related a story from the distant past.

Long ago, when Brahmadatta ruled in Benares, there lived in a village of the kingdom of Kasi two close friends who worked together in the fields. They carried vessels of water, placing them aside while they tilled the soil. When thirst arose, they drank from the vessels. One of the two, however, secretly conserved the water in his own pot and drank from his companion’s supply. That evening, after bathing and reflecting upon his conduct, he examined his actions of the day and recognized that he had committed a fault by taking what was not freely given. Filled with remorse, he resolved to restrain such wrongdoing, understanding that even a small fault could lead to grave consequences if allowed to grow. Through this sincere repentance and vigilance, he developed profound insight and attained the enlightenment of a Pacceka-Buddha.

When his companion later urged him to return home, the newly enlightened man renounced worldly life altogether. In that very moment, the marks of a householder vanished from him, the robes and bowl of an ascetic appeared, and he rose into the air. After teaching briefly, he departed to dwell in the Nandamula cave in the Himalayas.

In another village of Kasi lived a landowner who, while sitting in the marketplace, saw a man leading his wife. Overcome momentarily by desire at the sight of her beauty, he immediately recognized the danger of allowing such lust to take root. Struck by remorse and determination, he restrained his mind, developed insight, and attained the knowledge of a Pacceka-Buddha. Rising into the air, he taught briefly and departed to the same mountain refuge.

Elsewhere in Kasi, a father and son were traveling together and encountered robbers lying in wait at the edge of a forest. Knowing the robbers’ custom of seizing one relative and sending the other away to bring ransom, the father and son agreed to deny their relationship. When questioned, they falsely claimed to have no connection to one another. After passing safely through the forest and bathing in the evening, the son reflected upon the lie he had spoken. Recognizing the gravity of false speech and fearing its consequences, he resolved to purify his conduct. Through this resolve, he gained insight, attained the knowledge of a Pacceka-Buddha, taught his father while suspended in the air, and departed to the Nandamula cave.

In another village lived a wealthy landowner who had once forbidden the killing of animals. When the customary time arrived for offerings to spirits, the people requested permission to slaughter animals for sacrifice. He allowed them to proceed as before. Seeing the great number of living beings killed as a result of his consent, he felt deep remorse, recognizing that their deaths had occurred because of his decision. Standing by his window, he reflected upon this fault, developed insight, attained Pacceka-Buddhahood, taught briefly, and departed to the mountain cave.

Yet another landowner in Kasi had forbidden the sale of strong drink. When the people protested that it was time for their traditional drinking festival, he again allowed them to act as they had in the past. The festival led to drunkenness, violence, injuries, and suffering of many kinds. Witnessing this harm, the landowner realized that his permission had enabled these evils. Even though his fault seemed small, he felt profound remorse. Through this reflection, he attained insight and the enlightenment of a Pacceka-Buddha, admonished the people to be vigilant, and departed to the Nandamula cave.

Some time later, the five Pacceka-Buddhas came together and entered Benares on their alms round. With their robes properly arranged and their demeanor serene, they proceeded to the gate of the royal palace. The king, seeing them, was filled with joy and reverence. He welcomed them, offered them food, garments, and medicine, and listened attentively as they explained that each had renounced the world after recognizing even a small moral failing and fearing the consequences of allowing it to grow. Their restraint and insight deeply impressed the king.

After they departed, the king himself became disenchanted with sensual pleasures. Though he continued to eat fine food, he withdrew from indulgence, avoided contact with women, and spent his time in solitary contemplation. Fixing his gaze upon a white wall, he entered deep meditation and experienced profound rapture. Filled with disgust for desire, he resolved to abandon worldly life altogether.

Despite the concerns and lamentations of his court, the king entrusted the kingdom to his ministers, renounced his royal state, and departed through the air to the Himalayas. There, in a peaceful and beautiful place, he built a hermitage and lived the life of a sage. At the end of his life, he was reborn in the Brahma world.

Having concluded this discourse, the Buddha declared that no sin is too small to be ignored and that the wise restrain even the slightest unwholesome impulse. He then declared the Truths. At the conclusion of the teaching, the five hundred monks attained sainthood. Finally, the Buddha identified the past lives, explaining that the Pacceka-Buddhas had attained final liberation, Rahula’s mother had been the queen consort, and he himself had been the king.

.... o ....

J460. Yuvanjaya Jātaka -- Hãy thấy tính tất yếu của bệnh, già, và chết trong đời người.

Tóm tắt: Các vị sư thảo luận về việc Bồ Tát đã từ bỏ vương quốc của mình. Đức Phật kể một câu chuyện về một vị hoàng tử trẻ, sau khi chứng kiến ​​những giọt sương tan biến trên cỏ, đã quyết định từ bỏ vương quốc và dẫn theo em trai mình cùng đi.

.

Khi đang cư ngụ tại Jetavana, Đức Phật đã kể một câu chuyện liên quan đến sự từ bỏ vĩ đại. Các vị tỳ kheo đã tụ họp trong Đại điện Chánh pháp và suy ngẫm về việc Đức Phật, mặc dù có khả năng sống như một người cư sĩ và trị vì như một vị vua toàn năng với quyền lực, sự giàu có và danh vọng vô cùng lớn, đã từ bỏ tất cả vinh hoa phú quý trần tục sau khi nhận ra mối nguy hiểm tiềm ẩn trong dục vọng. Họ nhớ lại cách mà vào nửa đêm, cùng với Channa (Xa Nặc), Ngài cưỡi ngựa Kanthaka (Kiền Trắc), rời khỏi cung điện, từ bỏ thế tục bên bờ Sông Anoma (Sông Ni Liên), thực hành khổ hạnh trong sáu năm, và cuối cùng đạt được giác ngộ hoàn toàn. Khi Đức Phật biết được cuộc thảo luận của họ, Ngài giải thích rằng đây không phải là lần đầu tiên Ngài thực hiện sự từ bỏ vĩ đại. Trong một kiếp trước, Ngài cũng đã từ bỏ quyền cai trị một vương quốc rộng lớn và thịnh vượng. Để minh họa điều này, Ngài đã kể một câu chuyện từ quá khứ.

Ngày xưa, có một vị vua tên là Sabbadatta trị vì ở thành phố Ramma, một thành phố sau này được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau, bao gồm cả Benares. Vua Sabbadatta có một nghìn người con trai, và ông đã bổ nhiệm con trai cả của mình, Hoàng tử Yuvanjana, làm thái tử.

Một buổi sáng, Hoàng tử Yuvanjana cưỡi ngựa ra ngoài trong sự lộng lẫy để thưởng ngoạn công viên hoàng gia. Khi đi qua khu vườn, ông nhận thấy những giọt sương đọng trên ngọn cây, ngọn cỏ, cành cây, mạng nhện và lau sậy, lấp lánh như những chuỗi ngọc trai. Ông dành một phần ngày ở trong công viên, và vào buổi tối, khi trở về nhà, ông nhận thấy những giọt sương đã hoàn toàn biến mất. Biết rằng chúng đã biến mất khi mặt trời mọc, hoàng tử vô cùng xúc động trước cảnh tượng đó. Ông suy ngẫm rằng cuộc sống của chúng sinh mong manh và phù du như những giọt sương trên cỏ, và ông nhận thức rõ sự không thể tránh khỏi của bệnh tật, tuổi già và cái chết. Sự nhận thức này khiến ông thấy sự tồn tại như đang bốc cháy trong đau khổ, và ông quyết định từ bỏ thế tục.

Khi trở về cung điện, Hoàng tử Yuvanjana xuất hiện trước mặt cha mình trong Đại điện Phán xét và xin phép được từ bỏ cuộc sống trần tục. Vua Sabbadatta cố gắng thuyết phục ông, hứa hẹn bảo vệ, quyền lực và sự thỏa mãn mọi ham muốn, nhưng hoàng tử vẫn kiên định. Ông giải thích rằng ông không phải chạy trốn nguy hiểm hay khó khăn mà là tìm kiếm sự giải thoát khỏi sự suy tàn không thể tránh khỏi của sự tồn tại. Nhà vua do dự, và sự việc được báo cáo cho hoàng hậu. Hoàng hậu vội vã đến đại sảnh và cầu xin con trai mình ở lại. Mặc dù đau buồn và hết lời khẩn cầu, thái tử vẫn không lay chuyển, nhẹ nhàng khẳng định rằng cuộc sống con người trôi qua nhanh chóng như sương tan dưới ánh mặt trời.

Cuối cùng, nhận thấy sự quyết tâm sâu sắc của con trai, vua Sabbadatta đã đồng ý. Ngay lúc đó, người em trai út của thái tử, hoàng tử Yudhitthila, cũng xin phép được xuất gia và theo đuổi đời sống tu hành. Nhà vua cũng chấp thuận yêu cầu này. Hai anh em từ biệt cha mẹ và rời khỏi Đại sảnh Phán xét giữa tiếng than khóc của người dân thành Ramma. Hoàng hậu, quá đau buồn, than thở rằng thành phố đã mất đi báu vật quý giá nhất khi con trai cả của bà ra đi.

Bồ Tát không lập tức bước vào cuộc sống khổ hạnh. Trước tiên, ngài hoàn thành lời từ biệt với cha mẹ và hoàng tộc. Sau đó, cùng với người em trai, ngài rời khỏi thành phố. Sau khi tiễn biệt đám đông người dân đi theo, hai hoàng tử tiếp tục cuộc hành trình đến dãy Himalaya. Ở đó, tại một nơi yên bình và tươi đẹp, họ xây dựng một am thất và sống cuộc đời của những vị ẩn sĩ trong rừng. Sống nhờ rễ cây và trái cây, họ tu luyện thiền định sâu sắc và sống trọn đời trong thực hành tâm linh. Cuối đời, họ được tái sinh vào cõi trời Brahma.

Khi Đức Phật kết thúc bài thuyết pháp này, Ngài giải thích rằng sự xuất gia này không chỉ xảy ra trong kiếp sống cuối cùng của Ngài mà còn xảy ra trong những kiếp trước đó. Sau đó, Ngài xác định kiếp trước đó, nói rằng cha mẹ của thời đó là thành viên của một gia đình hoàng gia trong thời hiện tại, rằng Ananda chính là hoàng tử Yudhitthila, và chính Ngài là hoàng tử Yuvanjana.

.... o ....

J460. Yuvanjaya Jātaka -- Be aware of the inevitability of sickness, old age, and death.

Summary: The monks are discussing how the Bodhisatta renounced his kingdom. The Buddha shares a story about a young prince who, upon observing the dew disappearing from the grass, decided to give up his kingdom and took his younger brother with him.

.

While dwelling at Jetavana, the Buddha told a story concerning the Great Renunciation. The monks had gathered in the Hall of Truth and were reflecting on how the Buddha, though capable of living as a householder and ruling as a universal monarch endowed with immense power, wealth, and honor, had renounced all worldly splendor upon recognizing the danger inherent in desire. They recalled how, at midnight, accompanied by Channa, he mounted his horse Kanthaka, departed from the palace, renounced the world on the banks of the Anoma River, practiced severe austerities for six years, and finally attained perfect enlightenment. When the Buddha learned of their discussion, he explained that this was not the first time he had made the Great Renunciation. In a former age, he had likewise given up sovereignty over a vast and prosperous kingdom. To illustrate this, he related a story from the past.

Long ago, a king named Sabbadatta ruled in the city of Ramma, a city later known in other ages by many names, including Benares. King Sabbadatta had a thousand sons, and he appointed his eldest son, Prince Yuvanjana, as viceroy.

One morning, Prince Yuvanjana rode out in great splendor to enjoy the royal park. As he passed through the grounds, he noticed dew clinging to tree tops, blades of grass, branches, spider webs, and rushes, shining like strings of pearls. He spent part of the day in the park, and in the evening, as he returned home, he observed that the dew had completely vanished. Learning that it had disappeared with the rising of the sun, the prince was deeply struck by the sight. He reflected that the lives of living beings are as fragile and fleeting as dew upon the grass, and he became acutely aware of the inevitability of sickness, old age, and death. This insight caused him to see existence as burning with suffering, and he resolved to renounce the world.

Upon returning to the palace, Prince Yuvanjana appeared before his father in the Hall of Judgment and sought permission to abandon worldly life. King Sabbadatta attempted to dissuade him, offering protection, power, and the fulfillment of all desires, but the prince remained steadfast. He explained that he was not fleeing danger or hardship but seeking liberation from the inescapable decay of existence. The king hesitated, and the matter was brought to the attention of the queen, who hastened to the hall and implored her son to remain. Despite her grief and repeated entreaties, the prince remained unmoved, gently affirming that human life fades as quickly as dew under the sun.

At last, recognizing the depth of his son’s resolve, King Sabbadatta gave his consent. At that moment, the prince’s youngest brother, Prince Yudhitthila, also requested permission to renounce the world and follow the religious life. The king granted this request as well. The two brothers took leave of their parents and departed from the Hall of Judgment amid the lamentation of the people of Ramma. The queen, overcome with sorrow, lamented that the city was emptied of its greatest treasure with the departure of her eldest son.

The Bodhisatta did not immediately enter upon the ascetic life. First, he completed his farewell to his parents and the royal household. Then, accompanied by his younger brother, he left the city. After dismissing the large crowd that followed them, the two princes journeyed onward to the Himalayas. There, in a peaceful and beautiful place, they built a hermitage and adopted the life of forest sages. Sustained by roots and fruits, they cultivated deep meditative absorption and lived out their lives in spiritual practice. At the end of their lives, they were reborn in the Brahma world.

When the Buddha concluded this discourse, he explained that this renunciation was not unique to his final life but had occurred in earlier existences as well. He then identified the former birth, stating that the father and mother of that time were members of a royal family in the present age, that Ananda had been Prince Yudhitthila, and that he himself had been Prince Yuvanjana.

.... o ....

.

.

 

Những Tin Cùng Chủ Đề Đã Qua:
Bản Sanh: truyện 441 tới 450 / Jataka Tales: Stories 441–450
Bản Sanh: truyện 431 tới 440 / Jataka Tales: Stories 431–440
Bản Sanh: truyện 421 tới 430 / Jataka Tales: Stories 421–430
Bản Sanh: truyện é1 tới 420 / Jataka Tales: Stories 411–420
Bản Sanh: truyện 401 tới 410 / Jataka Tales: Stories 401- 410
Bản Sanh: truyện 391 tới 400 / Jataka Tales: Stories 391–400
Bản Sanh: truyện 381 tới 390 / Jataka Tales: Stories 381–390
Bản Sanh: truyện 371 tới 380 / Jataka Tales: Stories 371–380
Bản Sanh: truyện 351 tới 360 / Jataka Tales: Stories 351–360
Bản Sanh: truyện 341 tới 350 / Jataka Tales: Stories 341–350
<December 2025>
SuMoTuWeThFrSa
30123456
78910111213
14151617181920
21222324252627
28293031123
45678910
Tưởng Niệm
ĐIỆN THƯ PHÂN ƯU CÙNG CHƯ TÔN ĐỨC GHPGVNTN ÂU CHÂU VÀ MÔN ĐỒ PHÁP QUYẾN CỦA CÔ HÒA THƯỢNG THÍCH MINH GIÁC
Xem tiếp...
Cáo Phó
THƯ CẢM TẠ CỦA THƯỢNG TỌA THÍCH NGUYÊN LẠC - ĐẠI DIỆN TANG MÔN HIẾU QUYẾN
Xem tiếp...
Phân Ưu
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU CÙNG GIA ĐÌNH ĐẠO HỮU TỪ KHAI HƯƠNG (NGUYỄN THỊ NỞ) VÀ TOÀN THỂ TANG MÔN HIẾU QUYẾN HƯƠNG LINH PHẬT TỬ VENG POL
Xem tiếp...
   Từ Bi Ca    
   Nhớ Chùa Xưa    
   Tiếng Kinh Chùa Tôi    
   Bát Sử Sudatta    
   Lời Nguyện Sidatta    
   Sidatta Thành Phật    
   Hoa Đàm Thành Đạo    
   Tiếng Đàn Đế Thích    
   Tâm Sự Ma Đầu    
   Chư Thiên Thính Pháp    
   Thiên Nữ Thiện Cảm Đức    
   Tình Mẫu Tử Thiêng Liêng    
   Nhớ Ơn Phật    
   Dòng Sông Trăng    
   Từ Đàm Quê Hương Tôi    
   Dòng Suối Ngọt    
   Thành Đạo    
   Gió Mới    
   Nhớ Mái Chùa Xưa    
   Tình Mẹ    
   Mục Kiền Liên    
   Mẹ Hiền Quan Thế Âm    
   Thấy Dấu Chân Tâm    
   Thầy Ơi    
   Màn Đêm Nhung Tím    
   Đạo Ca Nhập Diệt    
   Hôm Nay Phật Đản Sanh    
   Bên Dòng Anoma    
   Tiếng Hát Nhân Gian Tịnh Độ    
   Cánh Hoa Vô Thường    
TRUNG TÂM VĂN HÓA PHẬT GIÁO VIỆT NAM - PHÁP VÂN
Phapvan Vietnamese Buddhist cultural Centre of Ontario
420 Traders Blvd, East Mississauga, Ontario L4Z1W7 CANADA
Bạn là người online số:
4373203