|
Cỡ chữ:
|
Kinh Phật Thuyết Công Đức Tạo Tháp |
Tác giả:
|
No. 699 Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc
Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu (01).
Việt dịch: Quảng Minh.
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Phật ở tại cung trời Đao lợi, ngồi trên pháp tòa làm bằng ngọc trắng, cùng với các đại tỳ kheo, các đại bồ tát, thiên chủ trời Đao lợi, vô lượng chúng đều đến tụ tập. Bấy giờ, Đại phạm thiên vương, Na la diên thiên tử, Đại tự tại thiên tử và năm vị càn thát bà vương, mỗi vị cùng các quyến thuộc đều đi đến chỗ đức Phật, muốn thưa hỏi đức Thế tôn phương pháp tạo tháp và cái lượng công đức sinh ra khi tạo tháp.
Trong pháp hội có vị bồ tát tên là Quán Thế Âm, biết ý nghĩ của họ, từ chỗ ngồi đứng dậy, trần vai bên phải, gối phải chấm đất, chắp tay hướng về đức Phật mà thưa: Bạch đức Thế tôn, hôm nay có chư thiên và các vị càn thát bà đi đến nơi đây là muốn thỉnh cầu đức Thế tôn chỉ dạy phương pháp tạo tháp và cái lượng công đức sinh ra khi tạo tháp, con xin đức Thế tôn vì họ và vì lợi ích cho tất cả vô lượng chúng sinh mà giải thuyết. Bấy giờ đức Thế tôn dạy bồ tát Quán Thế Âm: Thiện nam tử, chư thiên cùng đại chúng ở hiện tại đây và tất cả chúng sinh ở đời vị lai, tùy theo chỗ ở, phương xứ nào chưa có ngôi tháp thì có thể kiến tạo ngôi tháp ở nơi ấy. Hình thể của ngôi tháp có thể cao lớn, tráng lệ, vượt quá ba cõi, cho đến nhỏ như trái xoài (02) . Trụ tháp (03) có thể cao đến Phạn thiên, cho đến nhỏ như cây kim. Lọng tháp (04) có thể lớn trùm khắp cõi đại thiên, cho đến nhỏ như chiếc lá của cây táo. Bên trong ngôi tháp chứa thờ xá lợi, tóc, răng, râu, móng của Như lai, cho đến chỉ có một phần (những loại xá lợi), hoặc an trí pháp tạng là các kinh trong mười hai thể loại (05), cho đến an trí một bài kệ có bốn câu. Công đức của người tạo tháp bằng với công đức của bậc Phạn thiên. Người ấy sau khi mạng chung thì sinh lên cõi trời Phạn thế (06). Sống hết thọ mạng ở cõi trời Phạn thế, người ấy sinh về cõi trời Ngũ tịnh cư (07), đồng đẳng không có khác biệt với chư thiên cõi đó (08). Thiện nam tử, Như lai đã nói những việc như vậy, đó là nhân duyên và cái lượng công đức của việc tạo tháp, ông và chư thiên v.v… phải nên tu học.
Bấy giờ, bồ tát Quán Thế Âm lại thưa với đức Phật: Bạch đức Thế tôn, như những gì Thế tôn đã dạy, từ việc an trí xá lợi cho đến pháp tạng, con đã tiếp nhận ghi nhớ. Con kính thưa hỏi đức Thế tôn về nghĩa của bài kệ có bốn câu, cúi xin đức Thế tôn vì con mà phân biệt diễn thuyết.
Bấy giờ, đức Thế tôn thuyết bài kệ sau:
Các pháp nhân duyên sinh Ta nói là nhân duyên Nhân duyên hết là diệt Ta dạy nói như vậy. (09)
Thiện nam tử, nghĩa của bài kệ này là nói về pháp thân của Phật. Các ông phải sao chép bài kệ này rồi an trí ở trong ngôi tháp. Vì sao? Vì tất cả các pháp do nhân duyên sinh đều là thể tánh không tịch (10), vì vậy Như lai gọi đó là pháp thân. Nếu có chúng sinh hiểu rõ ý nghĩa nhân duyên của các pháp, nên biết người ấy thấy được Phật (11).
Bấy giờ, bồ tát Quán Thế Âm cùng với chư thiên, tất cả đại chúng, các vị càn thát bà v.v… nghe những điều Thế tôn tuyên thuyết, ai cũng rất hoan hỷ, tin tưởng, tiếp nhận và phụng hành.
Lời Tựa Kinh Công Đức Tạo Tháp
Tháp là gọi theo tiếng Phạn, dịch ý chỗ đất cao ráo. Tháp có hình vuông hay hình tròn, chế tác đa dạng, cầu kỳ hay giản dị (12), vẻ đẹp hài hòa, đắp đất trồng cây lưu lại linh ứng, cửa khóa pháp tạng, mong mỏi truyền đạt công đức hà sa, ngõ hầu đền đáp công lao trần kiếp.
Tháp đâu phải là nơi nói lên sự ái mộ vĩnh hằng với người cung kiếm mão y; như lăng Vũ Đế (13), vách Khổng Tử (14), chỉ dùng hiển bày sự chôn giấu mà thôi. Tháp có thể có cái lượng bằng với Đại thiên, trùm cả ba cõi và cao đến trời Phạn thế; có thể chỉ bằng với trái xoài, sánh với lá táo và ví như cây kim. Tháp dẫu có hai đường cao thấp, phước cũng không hai, dẫu có ngàn cách lớn nhỏ, tịnh tâm chung một. Tháp không chỉ là vàng ròng, ngọc trắng, cạnh tranh sáng đẹp; lửa ngay, nước sạch (15), nổi chìm màu sắc. Vào buổi chiều, tiếng gió lành thổi rung hòa vào tiếng chuông ngân trầm ấm. Vào buổi sáng, ngọt ngào lờ lững sương móc cõi tiên, long lanh ngưng đọng trên những phù điêu. Tháp là nơi vị đầy ba quả (16), công thêm bốn thiền, cao lên cung trời Hữu đảnh, đi đến ý địa Vô tai. Tháp dạy truyền ý tứ rộng sâu như vậy.
Ngày 15 tháng 11, mùa đông năm Vĩnh Long thứ nhất (680, vua Đường Cao Tông), cung thỉnh pháp sư Địa bà ha la người Thiên trúc cùng với 5 vị ở chùa Tây Minh, đạo tràng Hoằng Phước là các sa môn Viên Trắc v.v… phụng chiếu tuyên dịch kinh này. Đến ngày mùng 8 tháng 12 năm đó thì chư vị dịch xong văn nghĩa của kinh này, ngõ hầu pháp bảo này cứu giúp Đại thiên, khiến cho tuệ đăng kia chiếu sáng ba cõi. Kinh ấy sau đây: (17) 25.03.2011 (21.02.Tân Mão)
07. Cõi trời Ngũ tịnh cư thuộc Sắc giới, cũng gọi là Ngũ bất hoàn thiên hay Ngũ a na hàm thiên. Kinh Thủ lăng nghiêm ghi: Ở đây, còn có năm bậc Bất hoàn thiên, đã dứt sạch chín phẩm tập khí của cõi dưới, khổ vui đều hết, chẳng định cư ở cõi dưới, nên an lập chỗ ở nơi tâm xả của đồng phận chúng sinh. Năm bậc đó là: l. Khổ vui đã diệt, ưa ghét chẳng sinh, hạng này gọi là Vô phiền thiên; 2. Tự tại phóng xả, chẳng có năng sở, tâm chẳng đối đãi, hạng này gọi là Vô nhiệt thiên; 3. Mười phương thế giới, diện kiến trong lặng, chẳng còn tất cả cấu nhiễm của cảnh trần, hạng này gọi là Thiện kiến thiên; 4. Diệu kiến hiện tiền, biến tạo vô ngại, hạng này gọi là Thiện hiện thiên; 5. Sắc trần từ tướng lăng xăng đến chỗ cứu cánh chẳng động, cùng tột tánh sắc chẳng có bờ bến, hạng này gọi là Sắc cứu cánh thiên. A Nan, với các cõi Bất hoàn thiên này, chỉ riêng bốn vị thiên vương cõi tứ thiền mới được nghe biết, nhưng chẳng thể thấy biết. Như nay trong thế gian, nơi núi sâu rừng thẳm, những đạo tràng của bậc thánh, đều có các vị a la hán trụ trì, mà người thế tục chẳng thể thấy. 09. Kệ tụng này thuyết minh sự bất sinh bất diệt của pháp thân, nên gọi là pháp thân kệ, pháp thân xá lợi kệ, pháp tụng xá lợi. Kinh Dục tượng công đức ghi: Thiện nam tử, chư Phật Thế tôn có đủ ba thân, đó là pháp thân, thọ dụng thân và hóa thân. Sau khi Như lai nhập niết bàn, nếu ai muốn cúng dường ba thân này thì nên cúng dường xá lợi. Song xá lợi có hai loại: một là thân cốt xá lợi, hai là pháp tụng xá lợi. Đức Phật liền nói một pháp tụng: Các pháp theo duyên khởi/ Như lai nói là nhân/ Pháp kia nhân duyên hết/ Là đại sa môn nói. (諸法從緣起, 如來說是因, 彼法因緣儘, 是大沙門說: Chư pháp tùng duyên khởi/ Như lai thuyết thị nhân/ Bỉ pháp nhân duyên tẫn/ Thị đại sa môn thuyết). 10. Thể tánh chân thật của tất cả các pháp, không luận là tâm hay sắc, đều là cái tánh không tịch. Các pháp không tịch nên không có một sự gì và cũng không có một tướng gì, nhưng vì vậy mà tùy duyên có tất cả sự, tất cả pháp. Như Trung luận ghi: “Dĩ hữu không nghĩa cố, nhất thiết pháp đắc thành”.(以有空義故,一切法得成: Vì do có tánh không nên các pháp đều thành). 11. Tôn giả Vakkali ở nhà thợ gốm, đang bị bịnh nặng, sắp lâm chung, nhưng lòng rất muốn diện kiến dung nhan đức Thế Tôn và đảnh lễ Ngài lần cuối trước khi nhắm mắt lìa đời, nhưng không thể nào đến nơi ở của Thế Tôn được, cho nên Tôn giả Vakkali đã cho thị giả đến cung thỉnh đức Thế Tôn đến nơi mình ở. Vì lòng từ mẫn đức Thế Tôn đã thân hành đến thăm Tỷ kheo Vakkali. Sau khi đến đức Thế Tôn hỏi: - Này Vakkali, nếu ông không có gì trách mình về giới luật, vậy có gì phân vân hay hối hận không ? Tôn giả Vakkali thưa rằng: - Đã từ lâu, bạch Thế Tôn, con muốn đến để được thấy Thế Tôn, nhưng thân con không đủ sức mạnh để được đến thấy Thế Tôn.. Đức Thế Tôn dạy rằng: - Thôi vừa rồi, này Vakkali, có gì đáng thấy đối với cái thân hôi hám này. Này Vakkali. Ai thấy pháp, người ấy thấy Ta, Ai thấy Ta, người ấy thấy pháp. (H.T Minh Châu dịch, kinh Tương ưng bộ, tập 3) |
|
|
|
|