Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư
Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013
Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính bạch chư Tôn Đức Tăng già,
Kính thưa chư vị Thiện Hữu tri thức,
Lễ hiệp kỵ Lịch Đại Tổ Sư lần thứ VII, được tổ chức tại chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington, đông đảo chư Tôn Đức Tăng Ni và thính chúng, đã hoan hỷ câu hội trong tinh thần tương kính, tương thuận, tương giáo, tương sám như Luật dạy, cũng như pháp hòa kính, cộng trú mà hành Phật sự khắp mọi miền trên các quốc gia - Châu lục. Cũng như giữ gìn và phát huy bản thể của Tăng Già để làm điểm tựa sức sống trên bản nguyện thượng cầu hạ hóa.
Hôm nay trên tinh thần đó, chúng ta hãy chiêm nghiệm lại hành trạng và tinh thần tu chứng của Bồ Tát Thích Quảng Đức. Một con người bằng xương, bằng thịt, nhưng đã tích lũy công đức tu hành để có trái tim bằng kim cương bất hoại, được đốt cháy bằng ngọn lửa Từ Bi, trong ý thức bảo tồn, thăng hoa cuộc sống công bằng, bình đẳng và nhân bản.
I. Thân Thế Và Hạnh Nguyện Tu Trì:
Bồ Tát Thích Quảng Đức pháp danh Thị Thủy, pháp tự Hành Pháp. Thế danh là Lâm Văn Tuất. Sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Từ thuở nhỏ Bồ Tát xuất gia với Hòa Thượng Thích Hoằng Thâm là bổn sư cũng là cậu ruột. Bồ Tát được Hòa Thượng nhận làm con nuôi nên đặt tên là Nguyễn Văn Khiết. Năm 15 tuổi Bồ Tát thọ Sa Di. Năm 20 tuổi thọ Cụ túc giới.
Sau khi thọ giới xong Bồ Tát vân du hóa độ, Bồ Tát đã ẩn tu trong núi trọn 3 năm tại Ninh Hòa cho đến ngày hoàn mãn, Ngài đến Nha Trang cũng như các vùng phụ cận, từng bước chân hóa duyên, một mình bằng hạnh Đầu đà rày đây mai đó để làm điểm tựa và xây dựng niềm tin Phật Pháp kiên cố cho người Phật tử cư sĩ tại gia.
Vào năm 1932, khi Hội An Nam Phật Học ra đời, quý Ngài đã cung thỉnh Bồ Tát trong ngôi vị chứng minh Đạo sư cho Chi Hội Phật Giáo Ninh Hòa và sau đó kiêm nhiệm vai trò kiểm Tăng trong tỉnh Khánh Hòa. Trong thời gian làm Phật sự, hoằng pháp lợi sanh các tỉnh miền Trung Bồ Tát đã kiến tạo hoặc trùng hưng tất cả là 14 ngôi tự viện.
Công đức tu hành và nhân duyên hóa độ tùy duyên, năm 1934, Bồ Tát rời miền Trung để vào miền Nam tiếp tục trên con đường hoằng dương Phật pháp nơi đây. Bồ Tát đã làm Phật sự khắp miền Nam Việt Nam. Nơi nào có nhân duyên giáo hóa, Bồ Tát đều hóa thân phụng sự mà không phân biệt, vô thưởng, vô cầu. Do vậy, Bồ Tát cũng đã đến Campuchia để tham vấn, nghiên cứu kinh điển Pali Theravada. Con đường hoằng dương chánh pháp từ lúc thiếu thời ở miền Trung nước Việt, Bồ Tát đã hoàn thành sứ mạng của bậc chân tu thạc đức như thế nào thì vào miền Nam Nam Việt Bồ Tát vẫn đi trên con đường kiến lập đạo tràng, trùng hưng tự viện như vậy. Do đó, nơi đây Bồ Tát đã khai sơn trùng tu là 17 ngôi Chùa. Tổng cộng tất cả hai miền Trung Nam là 31 ngôi Già Lam hiện còn. Ngôi chùa cuối cùng, Bồ Tát trụ trì là chùa Quan Thế Âm, địa chỉ: 68 Nguyễn Huệ, quận Phú nhuận Gia Định. Nay đổi lại tên của Bồ Tát là Thích Quảng Đức.
Vào ngày 20 tháng 4 nhuần, Quý Mão, nhằm ngày 11 tháng 6 năm 1963, trong cuộc đấu tranh của Phật Giáo, nhằm đòi hỏi công lý, lẽ phải và bình đẳng tôn giáo, Bồ Tát đã nhận thấy được đâu là chánh pháp, đâu là thế lực vô minh tham vọng, bá quyền, Bồ Tát đã phát nguyện thiêu thân để bảo tồn chánh pháp. Để soi sáng lương tâm, lương tri chế độ đương thời. Tu hạnh Bồ Tát nên Bồ Tát đã thể hiện ước nguyện Bồ Tát bằng hành động của con đường Bồ Tát tự tẩm xăng ướt hết mấy lớp y hậu, rồi thiền tọa tại ngã tư Phan Đình Phùng, Lê Văn Duyệt giữa hàng hàng lớp lớp chư Tôn Đức Tăng Ni, công an, cảnh sát, tự tay bật lửa thiêu thân.
Từ tinh thần Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi, đốt thân mình làm ngọn đuốt thiêng soi sáng lương tri nhân loại. Thì cũng bằng tinh thần Đại Xả, Đại Hạnh, Đại Nguyện Bồ Tát đã khuyến tấn bằng lời nói Từ Bi vô phân biệt: “Trước khi nhắm mắt về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gởi cho tổng thống Ngô Đình Diệm, nên lấy lòng bác ái, Từ Bi đối với quốc dân và thi hành chính sách bình đẳng Tôn giáo để giữ vững nước nhà muôn thuở... Tôi tha thiết kêu gọi chư Thượng tọa, Đại Đức Tăng Ni, Phật Tử nên đoàn kết nhất trí, hy sinh để bảo tồn Phật Giáo.”
II. Ngọn Đuốc Thiêng Được Đốt Lên Bằng Định Lực Và Lời Nguyền:
Trước tình huống dầu sôi lửa bỏng, chư Tôn Đức Tăng Ni bị chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp khốc liệt, ngày càng nghiệt ngã. Các ngôi chùa miền Trung - Huế, đến Ấn Quang, Xá Lợi, Sài Gòn, đâu đâu cũng đầy màu tang tóc. Tiếng gào thét, lời rên xiết kêu la trong những trận tấn công của chính quyền bằng dùi cui, mã tấu, lựu đạn đến chư Tăng Ni, Phật tử, sinh viên, học sinh. Hình ảnh ấy in sâu vào tâm thức của Bồ Tát. Cái gì đến thì đã đến: đến bằng hạnh nguyện Từ Bi cứu khổ độ đời. Đến bằng Đại Hạnh Phổ Hiền. Bằng Đại Bi Quan Âm. Bằng Đại nguyện Địa Tạng Bồ Tát. Nơi chánh điện chùa Ấn Quang. Bồ Tát nhất tâm thọ trì Kinh Pháp Hoa để giữ tâm được tươi mát và kiên định ước nguyện được viên mãn. Bồ Tát lên chánh điện chùa Ấn Quang trong giờ tịnh độ, khóa lễ xong, Phật tử ra về, khi ấy Bồ Tát nói với Thầy Huệ Thới và Thầy Đức Niệm:
“Vì đại chúng, tôi xin hiến thân giả huyễn để cho pháp nạn được giải thoát. Ngày mai này tôi sẽ từ giã cõi đời, hẹn gặp hai Thầy ở cảnh giới cực lạc của Đức Phật A Di Đà, sau khi tôi tự thiêu để hiến dâng cho Phật Pháp, xin các Thầy lưu ý, vì tôi không thể trực tiếp nói với các vị lãnh đạo:
- Thứ nhất: Sau khi thân tôi thiêu thành tro bụi sẽ lưu lại trái tim cho đời, thì đó là kết quả tốt đẹp về lời phát nguyện của tôi hiến dâng thân này cho Đạo pháp và đó cũng là thành quả tu hành của tôi.
- Thứ hai: Khi tôi thiêu, nếu tôi chết trong tư thế nằm ngửa thì nguyện vọng Phật Giáo sẽ thành công, các Thầy cứ tiếp tục tranh đấu. Ngược lại nếu tôi chết nằm sấp thì các Thầy nên tìm cách đi ra các nước Miên, Lào, Thái… để mà tu, nguyện vọng tranh đấu của Phật Giáo không thành.
- Thứ ba: Ngày di quan tài của tôi, nếu quý Thầy có cảm thấy triệu chứng gì là lạ, có thể là ngủ mộng thấy, có thể là cảm giác hay triệu chứng gì thì nên đình chỉ ngay, dời việc di quan ra ngày khác.”
Để chứng minh ba điều mà Bồ Tát Thích Quảng Đức cho biết trước hôm tự thiêu đó là:
- Thứ nhất: Bồ Tát tự thiêu xương thịt cháy hết chỉ có trái tim đốt, sức nóng lên đến 4.000 độ mà không cháy.
- Thứ hai: Thân Bồ Tát ngã xuống và nằm ngửa tư thế viên tịch đúng như lời Bồ Tát nói trước hai Thầy Huệ Thới và Đức Niệm.
- Thứ ba: Giờ di quan đồng bào Phật tử được thông báo của Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo. Buổi trưa hôm ấy Phật tử thấy một số người mặc sắc phục đen từ những bờ ruộng đi lên gỡ những quả mìn đã đặt lúc nào trên đường dẫn đến lò thiêu An Dưỡng Địa.
Từ những lời nguyện sắt son vì Phật pháp mà Bồ Tát đã biết trước những gì sẽ xảy ra đúng như tâm nguyện của mình mà nói trước cho quý Thầy nghe để chứng minh lời nguyền sắt son ấy. Đồng thời vì định lực, mà Bồ Tát đã chuyển nghiệp chung của Phật Giáo đồ Việt Nam từ sự nguy nan chuyển thành sự bình an, lợi lạc. Và nhất là Bồ Tát đã để lại Trái Tim Bất Diệt để chứng minh một cách hùng hồn trên tinh thần tu tập - Tam Vô lậu Học, nhơn Giới sanh Định, nhơn Định phát Huệ, để đi thẳng vào lòng người mà hóa giải mọi sự phân tranh, oán tắng. Ngọn lửa Từ Bi và Trái Tim Bất Diệt của Bồ Tát đã thu hút hàng tỷ người trên thế giới theo dõi, dù người đó là Phật tử hay không Phật tử. Tất cả ai cũng đồng ý rằng, một chế độ bạo tàn phi nhân không thể tồn tại trước lẽ phải và sự thật. Đây là một bài học chung cho mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới, hãy lấy đó mà chiêm nghiệm cho bản thân để hành xử đúng thì tồn tại mà hành xử sai sẽ diệt vong.
III. Những Nguồn Tin Và Nhận Định Chung
- Thứ nhất: Ký giả Nữu Ước Thời Báo (New York times) David Halberstam đã tường thuật một cách ngạc nhiên và kính nể: “Tôi đã được thấy cảnh tượng ấy, nhưng chỉ một lần đã quá đủ. Lửa phủ khắp người, thân từ từ khô lại, đầu cháy nám, không khí bay mùi khét thịt, thân hình chìm trong lửa đỏ thật kinh ngạc. Phía sau tôi có thể nghe tiếng khóc của những người đang đứng vây quanh và một số lần lượt kéo đến. Tôi qúa xúc động khóc không nên lời, quá bàng hoàng để ghi chép hoặc hỏi vài câu, quá bối rối để suy nghĩ… chìm trong biển lửa nhưng ngài vẫn bất động, thịt gân không nhúc nhích, không một tiếng rên la, thân ngã xuống, những người đang đứng xung quanh òa khóc.” (*)
- Thứ hai: Quảng cáo trên New York Times và Wasinhton Post… ký giả kiêm nhiếp ảnh gia Malcolm W. Broure viết: “Những bức hình mà tôi chụp về cái chết của Hòa thượng Quảng Đức đã trở thành một sở hữu vật của người ta gởi đi khắp cùng thế giới. Những bức hình đó mang nhiều ý nghĩa tùy theo cái nhìn và mục đích xử dụng của mỗi người.” (*)
- Thứ ba: Báo Le Monde, Pháp: “Trước hành động tự thiêu để đấu tranh, kẻ tàn bạo nhất cũng phải chùn bước.” (*)
- Thứ tư: Báo Journal de Geneve tại Thụy Sĩ: “Người ta có thể tuyên truyền rằng đó chỉ là cuộc nổi loạn của phe đa số khắc khổ kiếm chuyện, vì chính phủ chỉ là một thiểu số bó kết chặt chẽ với nhau mà bộ tịch lại vênh váo và cứng nhắc. Những việc phải hy sinh vì chính pháp của Hòa Thượng Thích Quảng Đức lại cho thấy rằng Phật Giáo Việt Nam đang phải bảo vệ nếp sống và tư tưởng của họ.” (*)
- Thứ năm: Tôi (Bùi Kha) Có người quen ở Orange County cho biết, cách đây gần hai mươi năm, ông Ngô Đình Trác, con trai của bà Ngô Đình Nhu ở tại Pháp cùng với nhà thơ Du Tử Lê đến chùa Việt Nam Los Angeles, California lúc 2 giờ khuya để gặp Hòa Thượng Thích Mãn Giác. Hòa Thượng tiếp đón vui vẻ. Sau khi thắp hương và lễ Phật, Ông Ngô Đình Trác thưa rằng: “Mạ con biểu con qua gặp Hòa thượng và xin Hòa thượng trình lại với Giáo Hội Phật Giáo là Mạ con xin thay mặt gia đình xin sám hối những lời nói và việc làm trước đây đối với Tăng Ni và Phật tử Việt Nam…” (*)
- Thứ sáu: Mục sư Donald Harrington tại Nữu Ước: Buổi giảng trong thính đường ở New York ngày 30-6-63: “Cách đây hơn hai tuần, vào ngày 11- 6- 63 có vị sư tên Thích Quảng Đức đã ngồi theo kiểu tọa thiền trên đường nhựa nóng. Trên tay Người cầm một xâu chuỗi 45 hạt và bắt đầu niệm Phật, còn trên chiếc áo cà sa của Người thì đã tẩm xăng. Tất cả Tăng Ni lùi lại, kính cẩn, kinh sợ, khách bộ hành nhận thấy một biến cố phi thường gì sắp xảy ra nên tất cả đều dừng lại chờ đợi. Với vẻ thản nhiên, bình thản trên khuôn mặt, Ngài Quảng Đức niệm lớn “Nam Mô A Di Đà Phật”. Thế rồi Người bật một que diêm và ngọn lửa phừng phực phủ kín thân thể nhưng Ngài không hề rên la hay lay động. Người ngồi thẳng trong 10 phút, thân hình chìm trong lửa đỏ và khi lửa tàn, Người nằm xuống bất động.”(*) Hòa thượng Thích Quảng Đức hy sinh đời mình bằng cách tự thiêu để thức tỉnh lương tâm của Tổng thống Diệm và lưu ý cho toàn thế giới.
- Thứ bảy: Tích Lan, bà Sirimavo Bardarenaike, thủ tướng Tích Lan vô cùng xúc động. Bà kêu gọi các nước theo Phật Giáo tại Á Châu ủng hộ Tích lan trong việc yêu cầu Liên Hiệp Quốc can thiệp vào vấn đề đàn áp Phật Giáo tại Việt Nam. Ngày 26-8-63 Hội Nghị Phật Giáo Tích Lan yêu cầu các đoàn thể Phật Giáo trên toàn quốc treo cờ rũ để tang các Phật tử hy sinh vì tín ngưỡng.
- Thứ tám: Tuyên bố của bộ ngoại giao Hoa Kỳ: “Căn cứ vào các tin loan đi từ Sài Gòn, rõ ràng chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã có những biện pháp đàn áp nghiêm khắc các lãnh tụ Phật Giáo Việt Nam. Hành động này là một vi phạm trực tiếp của chính phủ Việt Nam vào lời cam kết theo đuổi một chính sách hòa giải với tín đồ Phật Giáo. Hoa Kỳ phiền trách các hành động đàn áp loại này.” (*)
- Thứ chín: Liên Hiệp Quốc, với những hình ảnh Phật tử Việt Nam bị đàn áp, bắt bớ, tù đày bởi chính quyền Ngô Đình Diệm được đăng tải vào các trang nhất của hầu hết các báo khắp thế giới, tổ chức Liên Hiệp Quốc mở cuộc điều tra vào ngày 24.09.63. Mặc dù chính quyền Ngô Đình Diệm không cho Liên Hiệp Quốc đến những nơi cần điều tra. Nhưng cuối cùng phái đoàn đã thu thập đủ bằng chứng để kết luận rằng: “Phật tử Việt Nam bị chính quyền Ngô Đình Diệm kỳ thị, khủng bố, tra tấn, tù đày, giết hại và bắt cải đạo trong nhiều năm qua.” (*)
IV. KẾT LUẬN
Lịch sử Phật Giáo Việt Nam hai nghìn năm qua, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, lắm khi còn lênh đênh theo vận nước nổi trôi, nhưng tính tự tồn, từ bản thể của Tăng Già, từ giá trị đặc thù của nền văn hóa giác ngộ đã un đúc và tác thành Tăng Già Việt Nam có dòng máu làm Phật, làm Tổ, làm Thánh Tăng, làm chư vị Thiền Sư… để hộ quốc an dân mà ngót một dòng lịch sử thời nào cũng có.
Bồ Tát Thích Quảng Đức ở trong dòng máu làm Phật ấy. Bồ Tát hóa thân vào đời ác năm trược để hiển bày giá trị chân tu thật đức cho con người thấy, mà tự tồn trên lý tưởng giác ngộ.
Bồ Tát Thích Quảng Đức sống chung với thời đại ác, nhưng lòng Bồ Tát luôn Từ Bi để hóa độ người ác. Luôn thương tưởng đến người ác mà ban bố hạnh lành hầu hóa độ cho họ chuyển mê thành ngộ, chuyển phàm thành Thánh, chuyển ác tâm thành thiện tâm.
Bồ Tát Thích Quảng Đức thắp sáng ngọn lửa Từ Bi, từ nơi thân xác của Bồ Tát, chỉ vì người, quên thân mình để hộ trì chánh pháp, đây là một triết lý sống cao thượng, vị tha mà chỉ có hạnh nguyện Bồ Tát mới có.
Hôm nay Đại Lễ Hiệp Kỵ lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn lần thứ VII. Đại Giới Đàn Huyền Quang, kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Chùa Cổ Lâm, tất cả Tăng tín đồ nhất tâm đảnh lễ hạnh nguyện độ đời kham nhẫn của Bồ Tát mà học đức tánh Từ Bi vượt thoát. Học trí tuệ siêu việt, tu chứng của dòng máu Tăng Già Việt Nam.
Seattle, ngày 25 tháng 9 năm 2013
Thích Nguyên Siêu
(*) Trích dẫn từ trang mạng Tu Viện Hoa Sen www.thuvienhoasen.org : Ngọn Lửa Quảng Đức và Biến Cố Phật Giáo 1963 Dưới Cái Nhìn Của Thế Giới – Bùi Kha.