KINH MA HA MA DA
Sa-môn Thích Đàm Cảnh
dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc,
vào thời Tiêu-Tề (479-502).
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn,
tại Canada, năm 2018.
Đệ tử chúng con, Hạnh Cơ và Tịnh Kiên, chí thành đảnh lễ
Chư Tôn Đức Ân Sư:
Hòa thượng bổn sư Thích Huyền Tân
Hòa thượng giáo thọ Thích Đôn Hậu
Hòa thượng giáo thọ Thích Chánh Thống
Hòa thượng giáo thọ Thích Trí Thủ
Hòa thượng giáo thọ Thích Trí Hữu
Hòa thượng giáo thọ Thích Trí Thành
Hòa thượng giáo thọ Thích Thiện Hòa
Hòa thượng giáo thọ Thích Thiện Hoa
Hòa thượng giáo thọ Thích Thiện Minh
Hòa thượng giáo thọ Thích Thiện Siêu
Hòa thượng giáo thọ Thích Như Ý (Trà-am)
Hòa thượng giáo thọ Thích Viên Giác
Hòa thượng giáo thọ Thích Huyền Quang
Hòa thượng giáo dưỡng Thích Chí Tín
Hòa thượng giáo thọ Thích Huyền Vi
Hòa thượng giáo thọ Thích Định Tuệ
Hòa thượng giáo thọ Thích Thuyền Ấn
Hòa thượng giáo đạo Thích Đỗng Minh
Ni trưởng bổn sư Thích Nữ Đàm Thu
Giới Thiệu
KINH MA HA MA DA
Kinh Ma Ha Ma Da thuộc hệ thống kinh Niết Bàn, do sa-môn Thích Đàm Cảnh, người Trung-hoa, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502), được thu vào tạng Đại Chánh, quyển 12, mang số 383, trang 1005-1014.
Nội dung kinh này gồm có bốn phần: Phần một ghi lại việc đức Phật lên cung trời Đao-lợi nói pháp hóa độ cho thánh mẫu Ma Ha Ma Da chứng được Sơ-quả Tu-đà-hoàn, cùng những bài pháp do chính thánh mẫu nói ra trước đại chúng. Phần hai ghi lại việc đức Phật từ cung trời Đao-lợi trở về tinh xá Kì-viên và du hành qua các nước để hóa độ chúng sinh; cuối cùng thì đến rừng Ta-la-song-thọ ở ngoại ô thành Câu-thi-na để nhập niết-bàn. Phần ba ghi lại việc thánh mẫu Ma Ha Ma Da từ cõi trời Đao-lợi xuống đến nơi đặt kim quan của đức Phật, buồn khóc thảm thiết, đức Phật tự mở kim quan ngồi dậy, nói pháp an ủi thánh mẫu, rồi nói lời từ biệt cuối cùng. Phần bốn, tôn giả A Nan thuật lại lời Phật dạy thuở trước liên quan đến tình hình trụ thế và hoại diệt của chánh pháp từ sau khi Ngài nhập diệt.
Nay chúng tôi xin dựa theo bản Hán dịch “Ma Ha Ma Da Kinh” của đại sư Thích Đàm Cảnh mà chuyển dịch ra Việt văn, mong được góp thêm một tài liệu quí giá vào việc tu học của Phật tử Việt-nam. Vì khả năng còn rất hạn hẹp, cho nên chúng tôi không tránh khỏi có điều sai sót, rất mong nhận được sự chỉ giáo của các bậc cao minh.
Việc dịch kinh này ra tiếng Việt, nếu có được chút ít phước đức nào, xin thành tâm nguyện đem hồi hướng cho chúng sinh, tăng trưởng lòng tin thanh tịnh, nuôi lớn tâm bồ-đề, phát triển trí tuệ, tiêu trừ tà kiến, gieo trồng các căn lành, sớm thành tựu đạo quả Niết-bàn.
Nhất tâm kính lễ Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
Nhất tâm kính lễ tôn giả Khải Giáo A Nan Đà.
Cung kính giới thiệu,
Miền Tây Canada, mùa An Cư năm 2018
Cư sĩ Hạnh Cơ
KINH MA HA MA DA(1)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh
dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc,
vào thời Tiêu-Tề (479-502).
Đây là những điều chính tôi được nghe:
Thuở đó đức Phật đang an cư ba tháng tại gốc cây ba-lợi-chất-đa, trong vườn Hoan-hỉ ở cõi trời Đao-lợi(2). Cùng an cư với đức Phật, có đông đủ chúng đại tì-kheo gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị, cùng với vô lượng trăm ngàn các chúng trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và chẳng phải người; ngoài ra còn có vô số chúng tì-kheo, tì-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cùng ở chung quanh đức Phật.
Lúc bấy giờ đức Phật ngồi trong tư thế hoa sen, từ các lỗ chân lông trên khắp thân mình, phóng ra ngàn luồng ánh sáng, chiếu soi khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Trong mỗi luồng ánh sáng ấy lại có ngàn hoa sen; trên mỗi hoa sen có ngàn đức hóa Phật, đều ngồi trong tư thế hoa sen, giống như đức Thích Ca Mâu Ni. Lúc ấy, ánh sáng của mặt trời, mặt trăng và các tinh tú đều không tự hiện rõ được, mà đều hòa nhập vào ánh sáng của đức Phật, làm cho khắp thân cây ba-lợi-chất-đa trở thành màu vàng ròng. Giống như bầu trời hoàn toàn trong suốt, không gợn tí mây, làm cho ánh sáng mặt trời mặt trăng chiếu rõ cùng cực; ánh sáng phóng ra từ thân của đức Phật tại cung trời Đao-lợi lúc bấy giờ cũng giống như vậy, mà còn sáng rỡ bội phần, không thể lấy gì để thí dụ được! Các vị thiên tử ở mặt trời, mặt trăng và các tinh tú, trông thấy hiện tượng ấy thì không biết có chuyện gì xảy ra, tâm ý vô cùng sợ sệt, bồn chồn, bất an.
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi:
“Ông hãy đến chỗ mẹ của Như Lai, thưa với bà rằng, Như Lai đang ở tại đây, xin bà tạm khởi thân, đến kính lễ Ba Ngôi Báu. Ông hãy đem bài kệ này đến đọc cho bà nghe!”
Đức Phật liền nói bài kệ rằng:
“Đức Đạo Sư Thích Ca
Thành tựu nhất thiết trí
Ở cõi Diêm-phù-đề
Như vị trời ngàn mắt
Từ lâu lòng khát ngưỡng
Mong được thấy từ nhan
Vốn xưa trong cung vua
Sinh con vừa bảy ngày
Lìa trần sinh thiên giới
Nhờ di mẫu dưỡng nuôi
Đến khi thành Chánh Giác
Ứng cúng độ chúng sinh
Hôm nay đến nơi này
Nói pháp báo ân xưa
Xin mẹ cùng quyến thuộc
Khởi thân đến nơi này
Kính lễ Phật Pháp Tăng
Lãnh thọ pháp chân tịnh”
Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi vâng lãnh lời dạy của đức Phật, đi ngay đến chỗ đức thánh mẫu Ma Ha Ma Da, đem lời thỉnh cầu của đức Phật bạch lên, và tụng lại bài kệ đức Phật đã nói. Đức thánh mẫu vừa nghe những lời ấy xong, bỗng có những giọt sữa từ ngực bà tự chảy ra, và bà nói rằng:
“Nếu quả thật vị đó chính là Tất Đạt Đa do tôi sinh ra, thì xin nguyện cho những giọt sữa này rơi vào miệng của Người.”
Đức Ma Ha Ma Da vừa nói lời ấy xong, những giọt sữa ấy, trông như những hoa sen trắng, bay thẳng đến, rơi vào miệng của đức Phật. Đức thánh mẫu trông thấy sự việc như vậy thì vui mừng hớn hở, sắc mặt tươi như đóa sen ngàn cánh vừa mới nở. Ngay lúc đó, ba ngàn đại thiên thế giới đều chấn động, muôn loại hoa đẹp chưa tới lúc nở mà đều nở rộ, ngàn loại trái ngon chưa đến lúc chín mà đều chín muồi. Đức thánh mẫu liền nói với Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi:
“Từ ngày được cùng với Phật kết làm mẹ con đến nay, tôi chưa từng có lúc được hoan hỉ an lạc như hôm nay. Ví như có người đói khát đau khổ cùng cực, bỗng có được bữa ăn ngon thì vui mừng không kể xiết, niềm vui của tôi hôm nay cũng giống như vậy; ngoài niềm vui ấy ra, không còn có bất cứ một niệm tưởng tạp loạn nào khác!”
Đức thánh mẫu nói lời ấy rồi, liền cùng với Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi đi đến chỗ Phật.
Lúc bấy giờ, đức Phật thấy mẹ từ xa đến, lòng tràn đầy hân hoan, tôn kính. Toàn thân Ngài dao động, như tướng rung động của núi chúa Tu-di và bốn biển lớn. Khi thấy mẹ đã đến trước mặt, đức Phật bèn dùng Phạm âm(3) mà thưa với bà rằng:
“Mẹ đã từng đi qua nhiều nơi, khổ vui đều trải đủ. Nay xin mẹ tu tập đạo niết-bàn, vĩnh viễn xa lìa mọi khổ vui.”
Đức Ma Ha Ma Da nghe Phật nói thế, liền chắp tay cúi đầu, một lòng suy nghĩ. Bà quì trước Phật, rồi năm vóc gieo xuống đất, chuyên tâm chánh niệm, bao nhiêu dây trói buộc đều tiêu trừ. Đức thánh mẫu bèn nói bài kệ xưng tán đức Phật rằng:
“Đức Thế Tôn từ vô số kiếp
Đã từng uống sữa từ thân con
Xa lìa nỗi khổ sinh già chết
Thành tựu đạo Bồ-đề vô thượng
Nay Ngài báo đáp ơn sinh dưỡng
Khiến con dứt trừ ba nọc độc
Kính lạy đấng Đại Trượng Phu
Bậc không tham, hay bố thí
Kính lạy Điều Ngự, Vô Thượng Sĩ
Bậc tối tôn, không ai bằng
Kính lạy Đạo Sư của trời người
Vĩnh viễn dứt trừ dây si ái
Con nguyện suốt ngày đêm sáu thời
Niệm tưởng Thế Tôn không gián đoạn
Đầu mặt sát đất xin đảnh lễ
Đấng Đại Pháp Vương Vô Thượng Tôn
Duyên may nay gặp phước điền Phật
Con nguyện gieo trồng giống công đức
Cúi xin Ngài từ bi giúp sức
Khiến hạt giống kết thành hoa trái
Ngài từ lâu vốn có đại chí
Cho nên đã sinh vào cung vua
Toàn thân ngời sắc màu vàng ròng
Ánh sáng chiếu soi khắp mười phương
Diện mạo thật tròn đầy thanh tịnh
Giống như mặt trăng Rằm mùa Thu”
Lúc bấy giờ, đức Phật thưa với mẹ rằng:
“Xin mẹ lắng nghe và suy nghĩ thật chín chắn. Giáo pháp này, ở phần đầu, phần giữa và phần cuối, nghĩa lí thật sâu xa, ngôn từ thật tinh diệu, hoàn toàn thuần nhất, không hỗn tạp; đầy đủ tướng phạm hạnh thanh khiết.”
Đức thánh mẫu Ma Ha Ma Da nghe lời nói ấy rồi, nhờ thần lực của Phật, bà biết rõ túc mạng của mình, và do căn lành của bà lúc bấy giờ đã thuần thục, bà liền phá trừ được tám mươi ức các loại phiền não, chứng quả Tu-đà-hoàn. Bà chắp tay bạch Phật rằng:
“Con từ trong lao ngục sinh tử đã chứng được quả giải thoát.”
Cả chúng hội nghe đức thánh mẫu nói như vậy, đồng thanh nói rằng:
“Xin nguyện cho tất cả chúng sinh đều được giải thoát, như thánh mẫu Ma Ha Ma Da hiện tại!”
Bấy giờ, đức Ma Ha Ma Da bạch Phật rằng:
“Ví như đống lửa mạnh đang đốt thanh sắt nóng, nếu ai đụng vào đó thì thân tâm tan nát. Biển sinh tử ở thế gian cũng giống như vậy, những chỗ tới lui đều là đau khổ tích tụ; mà nguồn gốc của khổ đau chính là do tâm ý. Tâm ý đuổi theo dục vọng mà sai sử chúng sinh, luân chuyển trong năm nẻo đường(4) nhanh như gió mạnh, như đánh cầu.”
Ở trước đức Phật, đức thánh mẫu lại tự trách tâm ý của mình rằng:
“Ngươi vì sao thường làm những điều không lợi ích? Ngươi luôn dạo chơi khắp sáu trần cảnh(5) mà không chịu ở yên; bao nhiêu ý tưởng tạp loạn loay hoay không phút nào ngưng nghỉ; những điều suy nghĩ đều không tốt đẹp. Tại sao ngươi chứa nhóm những điều xấu xa kia để mê hoặc ta? Ví như có người cuốc đất, đất thì không bao giờ tiêu mất, mà lưỡi cuốc thì cứ mỗi ngày mỗi cùn đi. Ở trong biển sinh tử cũng như thế, thân mạng bỏ đi không thể đếm xuể, mà thần thức của ta thì vẫn không tăng không giảm. Ngươi có thể khiến ta làm bậc chuyển luân thánh vương, có đầy đủ bảy món báu, thống trị cả bốn châu thiên hạ; phút chốc lại khiến ta trụt xuống làm loài ếch nhái; phút chốc lại kiến ta làm người nghèo khổ, chạy Đông chạy Tây để cầu xin cơm áo; phút chốc lại khiến ta làm ông trưởng giả giàu sang tột bậc, ai cũng biết danh; phút chốc lại khiến ta trú tại cung trời, ăn uống toàn vị cam lồ, thụ hưởng năm dục(6) thỏa thích; phút chốc lại khiến ta đọa vào địa ngục, uống nước đồng sôi, nuốt hòn sắt nóng. Ta trong nhiều đời quá khứ từng mang thân trâu ngựa, da chất đống cao như núi Tu-di, ở mãi trong biển sinh tử, chưa được giải thoát; bỗng chốc lại được vô số tên gọi: nào là đại gia, nào là đầy tớ, hoặc là chuyển luân thánh vương, hoặc là đế vương, hay trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người, chẳng phải người; hoặc là súc sinh, hoặc là ngạ-quỉ, hoặc là địa-ngục v.v…, chúng sinh có nhiều loại tên gọi như thế. Này tâm ý ngu si! Ngươi tuy từng trải đủ năm dục ở thế gian, nào của cải trân quí như vàng bạc, nào vợ con, kẻ hầu hạ, ngựa voi xe cộ, nhà cửa ruộng vườn, nhân dân làng xóm, nhưng tất cả đều là vô thường, đều phải tiêu tán. Chúng chỉ tạm có đối với mình, và rồi sẽ phải diệt mất; giống như người lữ khách chỉ đến nhà trọ để tạm nghỉ ngơi rồi đi, chứ không phải là người chủ ở luôn tại đó. Trên các cõi Trời thì chư thiên thụ hưởng đầy đủ năm dục một cách tự tại, nhưng khi phước hết sắp chết, năm tướng suy hoại(7) hiện ra, thì lòng bồi hồi luyến tiếc, vô cùng sầu khổ; và ở trong cõi Người, những kẻ nghèo khó thấp hèn thường bị người khác sai sử, nếu là vua chúa thì sát phạt lẫn nhau, quần thần, cha con thì tranh giành, tàn hại lẫn nhau; ở dưới Địa-ngục thì toàn những cảnh tượng giết, cắt, đốt, nấu; trong loài Súc-sinh thì ăn nuốt lẫn nhau, lấy da thịt xương gân đền trả những nợ nần kiếp trước, luôn bị nghiệp chướng bức bách không lúc nào được tự tại; trong chốn Ngạ-quỉ thì bị đói khát dày vò, chạy Đông chạy Tây chỉ thấy toàn lửa, và những bánh xe sắt nóng cứ chạy đuổi theo đằng sau. Năm nẻo đường sinh tử đầy dẫy khổ đau như vậy đó, không thể nào kể ra cho hết được! Này tâm ý ngu si! Từ vô số kiếp đến nay, ngươi lôi kéo ta tới lui các chốn, ta một mực tùy thuận theo ngươi mà chưa từng làm trái lại. Nhưng hôm nay thì ta quyết chuyên nghe Phật pháp, ngươi chớ gây chướng ngại cho ta nữa! Ngươi cũng nên chán ghét và xa lìa khổ đau, hãy mau chóng cầu đạo quả Niết-bàn an lạc.”
Lúc ấy, đức thánh mẫu Ma Ha Ma Da lại nói bài kệ dâng lên đức Phật rằng:
“Cúi xin rưới mưa pháp
Thấm tươi cây khô héo
Mầm Phật pháp nẩy nở
Tăng trưởng khắp mọi nơi
Nay con và chúng hội
Căn lành đều thuần thục
Các nấc thang đạo quả
Chứng ngộ theo thứ lớp
Xin ban cho cam lồ
Tiêu trừ gốc tham sân
Chúng con từ xưa nay
Bị vô minh trói buộc
Si mê không trí tuệ
Không biết cầu chánh đạo
Xin chỉ đường giải thoát
Chóng đến thành Niết-bàn”
Nói bài kệ đó xong, đức Ma Ha Ma Da lại nói tiếp bài kệ khen ngợi đức Phật, rằng:
“Trí tuệ Phật cao rộng
Như núi cao chất ngất
Như khe rộng hang sâu
Như suối trong đầy nước
Có các loại dược thảo
Mọc tươi tốt bên bờ
Nếu ai uống thuốc đó
Được an vui vô cùng
Cũng ví như cây mía
Tính chất luôn tự ngọt
Người biết ép lấy nước
Liền được vị ngọt ngon
Giáo pháp Thế Tôn nói
Bản chất tự thanh tịnh
Nếu có người tin nhận
Được phước báo vô cùng
Tất cả các chúng sinh
Cầu phước lạc vô tận
Chỉ có đức Mâu Ni
Gia hộ cho đầy đủ
Chúng sinh bị phiền não
Từ vô thỉ thiêu đốt
Phật như thầy thuốc giỏi
Tùy bệnh cho thuốc hay
Đường sinh tử khúc khuỷu
Gian hiểm khó vượt qua
Năm thầy Kiều Trần Như
Không biết lối trở về
Thế Tôn đại từ bi
Thân đến Ba-la-nại
Vì họ chuyển pháp luân
Đều chứng được đạo quả
Tám muôn các thiên tử
Bỗng dưng được pháp nhãn
Không có thầy dẫn đường
Mà thành tựu như vậy
Xá Lợi Phất, Mục Liên
Ca Diếp, Ca Chiên Diên
Bốn đại Thanh-văn ấy
Lúc chưa đi xuất gia
Tài cao trí thông bác
Nơi nơi đều tôn kính
Danh đức không ai bằng
Kiêu mạn thường khinh người
Nhưng khi nếm cam lồ
Qui phục thành La-hán
Giúp cho bậc Đạo Sư
Xoay chuyển bánh xe pháp
Như cây ni-câu-đà
Hạt giống vô cùng nhỏ
Mà mọc cây cao lớn
Cành lá phủ sum sê
Chúng sinh Phật hóa độ
Tăng tiến cũng như vậy
Như Ương Quật Ma La
Từng giết hại nhiều người
Nhưng Thế Tôn thương xót
Độ cho vào Phật đạo
Đề Bà Đạt Đa kia
Tạo tội ác ngũ nghịch
Đã xô hòn đá lớn
Muốn hại chết Thế Tôn
Thế Tôn vẫn bình đẳng
Coi như La Hầu La
Lại mẹ con loài quỉ
Chuyên ăn thịt con nít
Phật thương muốn hóa độ
Bèn đem dấu quỉ con
Quỉ mẹ không thấy con
Lòng sợ hãi bấn loạn
Liền đến trước Thế Tôn
Xin chỉ chỗ con mình
Thế Tôn dùng phương tiện
Vặn hỏi quỉ mẹ rằng
‘Ngươi thương nhớ con mình
Chạy đây đó tìm con
Sao không khởi tâm từ
Lại ăn con người khác
Hãy tự xét lại mình
Chớ giết hại kẻ khác
Nếu sửa đổi tâm tánh
Ngươi tức khắc thấy con’
Quỉ mẹ nghe lời dạy
Sám hối xin đảnh lễ
Và vì cả con mình
Chắp tay bạch Phật rằng
‘Con nay đến trọn đời
Nguyện dứt tâm sát hại’
Phật truyền cho năm giới
Và chứng được đạo quả
Như loài quỉ mẹ kia
Rất thương yêu con mình
Mở rộng tâm thương người
Dứt hẳn tâm sát hại
Cúi xin đức Đại Bi
Giờ đây cũng như vậy
Thương xót người mẹ này
Và khắp cả mọi người
Khai thị cho chánh pháp
Tất cả xin tiếp nhận”
Đức thánh mẫu Ma Ha Ma Da nói bài kệ ấy xong, lại bạch Phật rằng:
“Bạch đức Thế Tôn! Sở dĩ chúng sinh cứ bị trói buộc mãi trong năm nẻo đường, không bao giờ được tự tại, là đều vì các tội lỗi do phiền não gây ra. Xin nguyện cho con đời sau sẽ dứt sạch tất cả mọi nguồn gốc tội lỗi và chứng thành chánh giác. Chỉ có đức Thế Tôn đem tâm từ nghĩ đến những nỗi đau khổ về sinh già bệnh chết của thế gian, chúng sinh luôn bị thiêu đốt bởi ngọn lửa vô thường hừng hực, chưa bao giờ dừng nghỉ; mà bảo các đệ tử hãy quay về, để chỉ bày cái họa gốc rễ của sinh tử, mà nói lời rằng: ‘Tại sao các ngươi cứ mãi ngủ mê trên chiếc giường sắt đầy lửa của ba cõi(8)? Ở đó, con quỉ dữ vô thường luôn rình bắt các ngươi, lưỡi dao bệnh tật luôn muốn dứt mạng sống các ngươi; giống như bọn giặc cướp, hễ thấy kho báu liền cầm khí giới xông đến tấn công. Trải qua trăm ngàn ức kiếp, các ngươi đã từng thọ nhận đủ loại thân tướng, nhờ tu tập mười điều lành(9) mới được làm người. Tuy được làm người nhưng rất khó được sống lâu, vì cơn vô thường vẫn luôn áp bức; cho nên các ngươi phải nên cẩn thận! Còn như những người ngu si buông lung, cứ cho năm tháng ít nhiều là thời gian nhất định, mà chẳng biết mỗi niệm mỗi niệm cứ lặng lẽ trôi qua, đến lúc mạng chung thì theo nghiệp mà đi, để cho gia quyến đau buồn than khóc. Cứ như thế mà sự sống truyền nối đến vô cùng! Đời sống của con người ở trong thế gian nhanh như điện chớp, thế mà người ta vẫn hay khởi tâm kiêu mạn. Có người nói rằng: ta là quốc vương, thống lãnh thiên hạ, uy lực tự tại. Có người nói rằng: ta là đại thần, lo liệu việc nước, muốn cong muốn thẳng đều do ý ta. Có người nói rằng: ta là trưởng giả giàu có, của báu ê hề, tiêu dùng tùy thích. Có người nói rằng: ta là bà-la-môn, chủng tánh cao quí, thông minh học rộng, thừa kế tổ tiên làm thầy chủng tộc sát-đế-lị.’ Bạch đức Thế Tôn! Những người như trên, lúc còn sống ở đời, họ hưởng thụ thỏa thích mọi thứ khoái lạc mà không hề lo nghĩ; khi cái chết ập đến thì dù có hối hận cũng không còn kịp nữa! Thời tuổi đang cường tráng, bà con thân thích sum vầy, sống hoan lạc phóng túng, không làm được một việc thiện nhỏ; khi cơn vô thường đến, mọi người đều xa lìa nhau, tản mác mỗi người mỗi lối trong năm nẻo đường, ngàn vạn ức kiếp khó gặp lại nhau. Trong biển sinh tử không có gì là chân thật, tất cả đều hư ảo như thành càn-thát-bà(10). Đến như chư vị Phật Bích-chi(10), đã dứt trừ hết các kết sử, đầy đủ thần lực, tự tại, không sợ sệt; thân trên phun ra lửa, thân dưới phun ra nước, thân trên phun ra nước, thân dưới phun ra lửa; bay trên hư không, đến đi mau chóng, vách đá cũng không ngăn trở được; dung mạo đoan chánh, đầy đủ các tướng tốt, làm ruộng phước lớn cho chúng sinh; thế mà vẫn không thoát khỏi cái nạn vô thường! Giống như đem thùng nước thật lớn để dập tắt một ngọn lửa nhỏ, người đời phạm quốc pháp, tội phải xử tử hình, bị nhốt vào nhà tù, thế mà vẫn có thể được cứu thoát khỏi tù tội; còn khi cơn vô thường ập đến thì không thể nào cứu được! Các bậc hiền thánh đầy thần lực còn không thể thoát khỏi cơn vô thường, huống gì kẻ phàm phu mà không biết lo sợ ư! Các vị tiên danh đức lừng lẫy, đã chứng được năm phép thần thông, uy lực đầy đủ, như A Tư Đà, Đệ Ba Da Na, Uất Đầu La Sí, A La La, v.v…, ngày nay ở đâu? Họ đã tiêu mất do lửa vô thường thiêu đốt! Các vị trời như Đại Phạm Thiên Vương, Thích Đề Hoàn Nhân, Ma Hê Thủ La, v.v…; các vị thần có năng lực lớn như La Bà Nại, La Bà Nê, Tỉ Sa Nê, v.v…, cũng đều bị quỉ vô thường vây bắt! Các vị đế vương thống lãnh thiên hạ, dung nghi đoan chính, thông minh tột bậc, sức mạnh vô địch, như Đảnh Sinh, Na La Diên, Chi Dạ Đa La, v.v…, cũng đều bị lưỡi cưa vô thường nghiến nát, nay không biết ở đâu! Các loài khác có uy lực lớn như long vương Bà Già La, quỉ vương Tu Đà Lị Xá Na, a-tu-la vương Tì Ma Chất Đa La; và các bà thiên hậu dung mạo tuyệt thế, như Xá Chỉ Mê Na, A Già Lam Ba, Uất Ba Thi, v.v…, cũng đều đã theo quỉ vô thường mà đi! Ví như người thợ săn vây bắt các con thú, quỉ vô thường cũng như vậy, luôn truy bức để bắt chúng sinh đem đến chỗ vua Diêm La, nơi đây sẽ sai bầy voi nghiệp theo thứ lớp mà đạp lên. Bầy cọp vô thường luôn rình rập chúng sinh, hễ bắt được liền đem ăn thịt. Như người chiên-đà-la(12), khi muốn giết con dê, ông cột chân nó treo lên để nó không chạy thoát được; kẻ chiên-đà-la vô thường cũng vậy, nắm giữ chặt chúng sinh không thể chuyển động. Cơn vô thường giống như con trăn a-xà-ca-la, hễ gặp người thì đầu đuôi quấn chặt. Cơn vô thường giống như tháng không trăng, vầng sáng khuyết dần cho tới khi tối đen.”
Thánh mẫu Ma Ha Ma Da nói đến đây, liền đọc bài kệ rằng:
“Như người chiên-đà-la
Lùa bò đến lò giết
Từng bước tới chỗ chết
Đời người còn nhanh hơn”
Thánh mẫu đọc xong bài kệ trên, ở trước đức Phật, bà nói với chúng hội rằng:
“Thưa chư vị pháp huynh, pháp đệ, cùng các chị em! Quí vị nên chuyên cần tu giới hạnh. Hôm nay chúng ta trực tiếp được gặp đấng Đạo Sư vô thượng, lại được Ngài cầm cây đuốc pháp to lớn chiếu sáng cho, cùng cấp cho cơm ăn áo mặc đầy đủ. Nếu muốn tiến đến bờ giải thoát an lạc, hãy nên đến hỏi Ngài nhờ chỉ bày cho con đường chân chánh. Nếu có người gặp được một bậc Thầy dẫn đường thánh thiện như thế, mà không biết tùy thuận quay về nương tựa, thì phải biết rằng, đó quả là người thật ngu si khờ dại, chắc chắn sẽ tạo trọng tội ngũ nghịch(13) mà thôi. Biển khổ sinh tử quả thật đáng sợ. Vậy mà chúng ta đã ra vào đến đi ở trong đó biết bao nhiêu lần không thể đếm xuể được. Những loại xác thân lộn xộn chúng ta đã thọ nhận trải qua trong một kiếp(14), nếu lấy da đem chất đống thì sẽ cao như núi Tu-di; những nỗi khổ đau về sinh già bệnh chết thật không thể lường được! Vì vậy, hôm nay tôi xin thưa với quí vị, chúng ta phải ngày đêm siêng năng, mỗi niệm mỗi niệm hãy tìm cầu giải thoát!”
Lúc đó, thánh mẫu Ma Ha Ma Da từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, rồi quì xuống, chắp tay, bạch Phật rằng:
“Bạch đức Thế Tôn! Tất cả chúng sinh sở dĩ bị chìm đắm mãi trong biển sinh tử, là vì họ không thể biết được con đường để đi ra!”
Đức Phật liền tiếp lời đức thánh mẫu Ma Ha Ma Da, nói với chúng hội rằng:
“Chúng sinh sở dĩ không được giải thoát là đều do tham dục, sân hận và ngu si. Chính ba thứ phiền não độc hại đó đã nhận chìm chúng sinh ở mãi trong biển sinh tử; muốn cầu sinh lên thiên giới cũng còn khó khăn, huống gì mong cầu được giải thoát sinh tử! Ở cõi thế thì mất tiếng tốt, ban bè thân thuộc thì ruồng bỏ, coi như cỏ rác, không ai thương tưởng đến; tới giờ phút lâm chung thì cực kì sợ hãi, thần thức hoảng hốt, bấy giờ mới tự hối trách. Tất cả đều do ba thứ phiền não độc hại ấy. Nếu muốn cầu giải thoát, muốn đạt được thành quả vi diệu, phải dứt trừ nguồn gốc của khổ đau. Giống như con ngựa dữ bị trói cột không thể cử động được, chúng sinh cũng hằng bị kết sử(15) ràng buộc như vậy. Chúng sinh ngu si, không biết rõ sắc thọ tưởng hành thức chính là nguồn gốc của khổ đau, không biết rõ kết quả của sự diệt trừ nguồn gốc khổ đau, và không biết rõ phương pháp diệt trừ nguồn gốc khổ đau, cho nên không giải thoát được những nỗi khổ sinh già bệnh chết. Nếu biết rõ một cách rốt ráo rằng, sắc thọ tưởng hành thức chính là nguồn gốc của khổ đau, mà giải thoát được những nỗi khổ sinh già bệnh chết, đó gọi là dứt trừ được nguồn gốc của khổ đau. Khi đã dứt trừ được nguồn gốc khổ đau rồi thì xa lìa được vọng tưởng. Vọng tưởng đã xa lìa thì không còn tham đắm sáu thứ trần cảnh sắc thanh hương vị xúc pháp, cũng không chấp trước vào ngã và ngã sở. Từ nay quí vị hãy đem giáo pháp này khai thị cho nhau để được lợi ích lâu dài. Giờ đây, quí vị hãy lắng nghe Như Lai nói điều này: Từ vô số kiếp trong quá khứ cho đến nay, Như Lai đã vì chúng sinh mà tu hành khổ hạnh, giờ đây đã thành tựu được đạo quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Như Lai thương yêu tất cả chúng sinh như trẻ con thơ dại; những ai có duyên hóa độ, Như Lai đều đã hóa độ hoàn tất. Tất cả giáo pháp của chư Phật trong ba đời, Như Lai đều đã trải nghiệm qua. Từ nay Như Lai sẽ không trở lại cõi thế gian này nữa, không còn dấu vết để kiếm tìm. Như Lai không còn làm giáo chủ cõi Diêm-phù-đề, cũng không còn làm giáo chủ các cõi Cù-da-ni, Phất-bà-đề, hay Uất-đan-việt(16); cũng không còn làm Chuyển luân thánh vương, Đế Thích, hay Đại Phạm Thiên Vương. Như vậy tức là Như Lai xa lìa hẳn sự ràng buộc của ba cõi, và hoàn toàn an trú ở địa vị một bậc Pháp Vương tự tại. Như Lai không dùng khí giới, gông cùm để chế phục người đời, mà chỉ đem chánh pháp ban bố cho khắp chúng sinh, khiến cho tất cả đều được giải thoát. Có sum họp tất phải có chia lìa, sức mạnh của các hành(17) là như thế. Núi báu Tu-di, khi số kiếp hết thì cũng phải tiêu diệt; nước trong bốn biển, đến lúc nào đó rồi cũng phải cạn khô. Như Lai xuất hiện ở đời là vì cứu độ chúng sinh, nay nhân duyên đã mãn, không nên miễn cưỡng lưu trú. Cơn vô thường ác hại như loài cá sấu, hễ cắn được người thì không bao giờ nhả bỏ.”
Tất cả chúng hội nghe lời Phật dạy như thế thì buồn khóc áo não, đồng thanh đọc bài kệ rằng:
“Mặt trời trí tuệ Phật
Chiếu sáng khắp thế gian
Rồi đây sẽ lặn mất
Vào quả núi vô thường
Bậc Đạo Sư cao cả
Đấng Thượng Sĩ tột cùng
Không còn bao lâu nữa
Các hành cũng xâm phạm
Các chúng sinh phước mỏng
Chìm trong chốn tối tăm”
Lúc bấy giờ, đức Phật ở cung trời Đao-lợi nói pháp hóa độ cho tám bộ chúng(18) và bốn chúng đệ tử(19) đã tròn ba tháng. Ngài muốn trở lại cõi Diêm-phù-đề, liền bảo người con của một quan đại thần ở thành Vương-xá, vốn thông minh biện tài, tên là Cưu Ma La, rằng: “Ông hãy xuống cõi Diêm-phù-đề, đi khắp các nước, nói cho mọi người biết rằng, Như Lai không bao lâu nữa sẽ nhập niết-bàn. Ông hãy đem bài kệ này mà bố cáo cho dân chúng.” Đức Phật liền nói kệ rằng:
“Thế gian nay mờ tối
Mất con mắt trí tuệ
Rễ ba độc sâu dầy
Không có vị y vương
Lại không bao lâu nữa
Phật sẽ nhập niết-bàn
Hiện nay Ngài đang ngự
Tại cung trời Đao-lợi
Nói pháp độ chúng sinh
Quí vị mau cung thỉnh
Trở về Diêm-phù-đề”
Công tử Cưu Ma La vâng lời Phật dạy, xuống cõi Diêm-phù-đề, đem bài kệ của Phật truyền đạt đến dân chúng khắp các nước. Mọi người nghe bài kệ ấy rồi, thì lòng vô cùng sầu não, đều cúi đầu đảnh lễ, thưa với công tử rằng: “Trong thời gian qua, chúng tôi đã bị mất bóng mát đại từ, lửa độc của thế gian càng thêm mãnh liệt, mà không biết bậc Đạo Sư đang ở nơi nào! Hôm nay chúng tôi mới biết được đức Thế Tôn đang ngự tại cung trời Đao-lợi, lại không còn bao lâu nữa Ngài sẽ nhập niết-bàn! Vậy là con mắt của thế gian sắp diệt mất, sao mà đau khổ đến thế! Chúng tôi mang thân phàm phu, không thể lên trời để cung thỉnh đức Thế Tôn, xin nhân giả thương xót chúng tôi, trở lại cõi trời, bạch lên đức Thế Tôn rằng: Tất cả chúng sinh ở cõi Diêm-phù-đề, từ xa xin đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn. Trong thời gian qua họ không được ân thánh hóa, tìm cầu khắp nơi mà không biết đức Thế Tôn ở đâu. Nay họ mới biết được Ngài đang ngự tại cung trời Đao-lợi, hóa độ rộng khắp chúng sinh; và không còn bao lâu nữa Ngài sẽ nhập niết-bàn. Vậy là thế gian sẽ mất đi con mắt trí tuệ! Cúi xin đức Thế Tôn thương xót chúng sinh ở Diêm-phù-đề mà mau chóng trở về ban cho họ pháp dược!”
Công tử Cưu Ma La nghe mấy lời ấy xong, liền trở lại cung trời Đao-lợi, đến ngay chỗ Phật ngự, đem lời cung thỉnh của chúng sinh ở cõi Diêm-phù-đề, trình bạch đầy đủ lên đức Phật. Ngài nghe xong, liền phóng ra ánh sáng năm màu: xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng; chiếu soi cùng khắp cõi Diêm-phù-đề.
Bấy giờ, tất cả dân chúng cõi Diêm-phù-đề trông thấy ánh sáng ấy đều vô cùng hân hoan, cho là điều chưa từng có. Họ bảo nhau rằng: “Hôm nay sao bỗng dưng lại có hiện tướng kì lạ này? Đây không phải là ánh sáng của mặt trời, mặt trăng và các vì sao; cũng không giống với thứ ánh sáng do các tiên nhân đã chứng năm thần thông hoặc các vị bà-la-môn có thần lực dùng chú thuật tạo ra.” Lại cũng có người nói rằng: “Theo tôi quan sát kĩ thì thấy ánh sáng này nhất định không phải của ai khác, mà chính là của đức Y vương vô thượng, đại từ. Ngài vì thương xót thế gian, cho nên đã phóng ra ánh sáng ấy để đem đến cho chúng ta niềm an lạc.”
Lúc đó, trời Đế Thích biết Phật sắp trở về cõi Diêm-phù-đề, liền sai quỉ thần làm ba cái cầu thang quí báu: cầu thang chính giữa dùng toàn vàng diêm-phù-đàn, cầu thang bên phải dùng thuần ngọc lưu-li, cầu thang bên trái dùng thuần ngọc mã-não; lan can được chạm trổ cực kì tinh vi.
Bấy giờ, đức Phật thưa với thánh mẫu Ma Ha Ma Da rằng: “Các pháp sinh tử, có sum họp tất có chia lìa. Giờ đây con phải trở lại cõi Diêm-phù-đề, và không bao lâu nữa sẽ nhập niết-bàn.”
Đức thánh mẫu nghe Phật nói thế thì buồn bã rơi nước mắt, liền nói bài kệ rằng:
“Thế Tôn vô số kiếp
Vì thương xót chúng sinh
Bỏ đầu mắt tủy não
Nay chứng thành Chánh Giác
Vì chúng sinh ba cõi
Đang chìm đắm biển mê
Dùng thuyền pháp cứu vớt
Mà sao vội chia lìa!”
Đức Phật dùng kệ đáp lại rằng:
“Chư Phật hiện ra đời
Đều do có nhân duyên
Duyên hết phải chia lìa
Pháp Phật là như thế”
Đức Phật nói bài kệ ấy xong thì từ biệt thánh mẫu Ma Ha Ma Da, bước xuống cầu thang báu, có trời Đại Phạm Thiên Vương cầm lọng theo hầu, trời Đế Thích và bốn vị Thiên Vương đi hai bên, vô số trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và những loài không phải người, chư vị tì-kheo, tì-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cùng các chúng quỉ thần khác, trước sau vây quanh đức Phật, chật cả hư không, cùng theo đức Phật xuống cõi Diêm-phù-đề.
Lúc bấy giờ, ở cõi Diêm-phù-đề, các vị quốc vương như Ba Tư Nặc, Tần Bà Ta La, Ưu Đà Diên, Vật Đà già, Phất Ca La Ta La, v.v…, cùng các quan đại thần, các vị trưởng giả, cư sĩ, bà-la-môn, tì-kheo, tì-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, đều đứng ở chân cầu thang để nghinh đón đức Phật. Đặc biệt, vua Ba Tư Nặc của thành Xá-vệ, đã sai các quan viên sửa soạn thức ăn cùng các vật dụng cần thiết, đặt sẵn trong tinh xá Kì-hoàn để cúng dường.
Bấy giờ, đức Phật đã về đến Diêm-phù-đề, các vị quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ, cùng bốn chúng, đồng cung kính đảnh lễ, dâng lời xưng tán, và theo Phật cùng vào tinh xá Kì-viên. Vào lúc ấy, dân chúng khắp các nơi cũng được biết tin đức Thế Tôn đã trở về tinh xá Kì-viên từ cõi trời Đao-lợi, liền kéo nhau đi, chật cả đường sá, hướng về tinh xá Kì-viên, đông đảo không thể kể xiết!
Bấy giờ, đức Phật ngồi tòa sư tử, có bốn chúng đệ tử và tám bộ chúng ngồi vây quanh. Vua Ba Tư Nặc, với niềm hân hoan vô tận, liền đọc bài kệ dâng lên đức Phật rằng:
“Chúng con xin kính lạy
Đấng công đức vô thượng
Nhổ sạch gốc khổ đau
Đã trồng nhiều căn lành
Từ bi thương chúng sinh
Bậc Điều Ngự tối thắng
Tướng tốt thân đoan nghiêm
Bậc Đạo Sư cao cả
Ruộng phước của chúng sinh
Công đức trùm thế gian
Hàng phục bằng nghị luận
Thần lực luôn tự tại
Con cúi đầu đảnh lễ
Bậc Thầy của trời người”
Vua Ba Tư Nặc nói bài kệ ấy xong, lại bạch Phật rằng:
“Bạch đức Thế Tôn! Chúng sinh đang chìm đắm trong biển sinh tử, ăn uống toàn thuốc độc, không thể nào cứu chữa. Cúi xin đức Thế Tôn vẩy nước cam lồ!”
Đức Phật dạy:
“Quí vị nên biết tất cả nguồn gốc của sinh tử: Do vô minh mà có hành, do hành mà có thức, do thức mà có danh sắc, do danh sắc mà có lục nhập, do lục nhập mà có xúc, do xúc mà có thọ, do thọ mà có ái, do ái mà có thủ, do thủ mà có hữu, do hữu mà có sinh, do sinh mà có lão tử(20) và lo buồn khổ đau chồng chất. Nếu vô minh diệt mất thì hành diệt mất, hành diệt mất thì thức diệt mất, thức diệt mất thì danh sắc diệt mất, danh sắc diệt mất thì lục nhập diệt mất, lục nhập diệt mất thì xúc diệt mất, xúc diệt mất thì thọ diệt mất, thọ diệt mất thì ái diệt mất, ái diệt mất thì thủ diệt mất, thủ diệt mất thì hữu diệt mất, hữu diệt mất thì sinh diệt mất, sinh diệt mất thì lão tử diệt mất và cả khối lo buồn khổ đau cũng diệt mất. Quí vị nên chuyên cần tu tập để mau chóng xa lìa biển khổ ba cõi. Lại nữa, này quí vị! Ở trong biển sinh tử, chúng sinh luôn bị tám thứ khổ(21) bủa vây, đều do các nghiệp thân miệng ý(22) tích tập và lưu chuyển không ngừng. Nếu diệt trừ được các gốc rễ tích tập kia, thì mọi khổ não cũng bị tiêu diệt. Tu tập tám nguyên tắc hành động chân chánh(23), đó là con đường chánh dẫn đến niết-bàn. Người nào quán chiếu và thấy tỏ tường điều này, thì có thể xa lìa được ba cõi.”
Đức Phật nói pháp cho vua Ba Tư Nặc và đại chúng nghe xong, bèn dẫn chúng tì-kheo, khởi hành từ thành Xá-vệ, tuần tự đi đến các thôn ấp xóm làng khác, những ai có duyên lành đều được Ngài hóa độ; rồi Ngài đến sông Ni-liên-thuyền, thay áo tắm, xuống sông tắm gội. Bấy giờ, vô lượng trăm ngàn trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và không phải người, trông thấy đức Phật tắm gội ở dưới sông, đều cầm mọi thứ hương xoa, hương bột, v.v…, đem đến cúng dường. Lúc đó, các loài chúng sinh, hoặc ở dưới nước, hoặc ở trên mặt đất, hoặc ở trong không trung, thấy thân thể của đức Thế Tôn giống như tấm gương sáng, hình sắc cực kì vi diệu, đều vô cùng hoan hỉ, phát khởi từ tâm, ba thứ phiền não độc hại(24) đều tiêu trừ, không tàn hại lẫn nhau, và đều phát tâm bồ-đề vô thượng. Tôn giả A Nan liền bạch Phật rằng:
“Hôm nay các loài chúng sinh ở dưới nước, trên mặt đất, trong không trung, thấy thân thể của đức Thế Tôn còn sinh niềm hoan hỉ, phát tâm bồ-đề, thế mà thầy Đề Bà Đạt Đa(25), vốn sinh ra trong dòng họ Thích, là kẻ thân thuộc của đức Thế Tôn, lại là sa-môn, miệng thường đọc tụng kinh điển thâm diệu, nhưng lại luôn luôn làm những việc đối nghịch với đức Thế Tôn, như phá hoại sự hòa hợp của Tăng đoàn, làm cho thân đức Thế Tôn chảy máu, bày mưu cho thái tử A Xà Thế giết hại vua cha, hằng ngày ăn uống món ngon vật lạ, tự kiêu cho rằng mình ngang bằng với đức Thế Tôn, vì món lợi dưỡng nhỏ mà bị lửa đốt mình, dù chư Phật muốn cứu vớt cũng không thể cứu được!”
Đức Phật bảo tôn giả A Nan:
“Như thầy vừa nói, Đề Bà Đạt Đa lúc nào cũng để tâm oán hận và muốn ám hại Như Lai, tự tạo nghiệp nhân địa ngục a-tì, tất cả chư Phật không thể cứu thoát. Như Lai rất thương xót thầy ấy, nhưng chẳng bao lâu nữa thì nghiệp khổ sẽ đến với thầy ấy.”
Lúc ấy, đại đức Đề Bà Đạt Đa đang đi gần đó, nghe được lời nói ấy của đức Phật thì tức giận vô cùng. Ông liền bỏ đức Phật, dẫn các đệ tử của mình đi sang nước Ma-kiệt-đà để nương tựa với vua A Xà Thế. Trên đường đi, từng đàn chim bay lượn qua lại trên đầu, kêu la inh ỏi; lại có con trâu dữ muốn xông đến húc ông. Các đệ tử của ông thấy những hiện tượng như thế, nói với ông rằng: “Đây đúng là điềm chẳng lành, sợ rằng chúng ta đang đi đến chỗ bất lợi!” Đại đức Đề Bà Đạt Đa liền mắng các đệ tử: “Các ngươi ngu si, đâu có biết gì! Chỉ việc đi theo ta mà thôi, không cần phải nói nhiều!”
Bấy giờ, thầy trò Đề Bà Đạt Đa đã đến trước cửa thành Vương-xá. Ồng bảo người lính giữ cửa vào báo cho vua A Xà Thế biết là ông đã đến, đang chờ ở ngoài cửa thành. Người lính giữ cửa thành y lời, vào cung bạch lên đức vua. Vua A Xà Thế nghe tin Đề Bà Đạt Đa đã đến trước cửa thành, thì đùng đùng nổi giận, bảo người lính giữ cửa thành rằng: “Cho đến tên của người ấy mà ta cũng không muốn nghe, huống gì là nhìn thấy mặt ư? Ví như mưa đá có thể làm gẫy nát cỏ cây, nhưng ở trên đất chẳng bao lâu cũng sẽ tiêu tan hết. Người ác như Đề Bà Đạt Đa cũng giống như vậy, xúi giục người khác làm ác khiến cho căn lành của người ta bị tiêu hoại, thì cũng trở lại làm tiêu hủy căn lành của mình.” Rồi nhà vua bảo người giữ cửa thành không cho Đề Bà Đạt Đa vào thành. Việc này đã làm cho Đề Bà Đạt Đa vô cùng giận dữ. Ông tự đấm vào đầu và nghiến răng mạ lị. Ngay lúc ấy, một vị tì-kheo-ni là Ưu Ba La từ trong thành đi ra, trông thấy Đề Bà Đạt Đa thì nói rằng: “Chính ông đã làm cho dòng họ Thích suy vi, và làm chướng ngại cho Phật pháp.” Đề Bà Đạt Đa nghe câu nói ấy, lại tràn đầy tức giận, liền nắm tay đánh vào đầu vị ni sư, khiến cho ni sư mạng vong! Thế là Đề Bà Đạt Đa lại giết một vị tì-kheo-ni A-la-hán! Tức thì, mặt đất nứt ra, một ngọn lửa lớn cuốn lấy thân thể của ông, lôi thẳng xuống địa ngục!
Lúc bấy giờ, đức Phật tắm gội đã xong, hướng về chư vị tì-kheo, nói kệ rằng:
“Như đi đường hiểm trở
Mỗi bước đều lo sợ
Khi đến nơi đất bằng
Tâm mới được yên ổn
Đường sinh tử hiểm ác
Chúng sinh luôn sợ sệt
Chỉ có đường niết-bàn
Người đi thấy an lạc
Nay ta muốn đến đó
Nơi thường lạc tịch tĩnh”
Đức Phật nói bài kệ ấy xong, cùng với tôn giả A Nan đi đến thành Vương-xá, giảng pháp cho chúng tì-kheo tại đó. Rồi Ngài đến ấp Ba-liên-phất, nói pháp giáo hóa cho dân chúng, quí vị trưởng giả, cư sĩ và phạm-chí. Dần dà Ngài du hành đến thành Tì-xá-li, nói pháp hóa độ cho dân chúng tộc Li-xa. Bấy giờ đức Phật cảm thấy toàn thân đau nhức, liền bảo tôn giả A Nan:
“Hiện giờ khắp thân thể của Như Lai đều đau nhức. Như Lai chỉ muốn bỏ cái xác thân khô mục này! Này A Nan! Thầy nên biết, những tì-kheo và tì-kheo-ni nào đã tu tập thành tựu bốn phép như ý(26), thì có thể duy trì mạng sống ở thế gian này tròn một kiếp hoặc ít hơn một kiếp; huống gì Như Lai đã đạt đến chỗ sở cầu tự tại!”
Lúc đó tôn giả A Nan đang bị thiên ma che mờ tâm trí, nên không nghe biết gì; thậm chí, đức Phật đã nhắc đi nhắc lại đến ba lần, mà tôn giả vẫn im lặng, không trả lời đức Phật! Cuối cùng, đức Phật bảo tôn giả A Nan, hãy ra ngồi ở một gốc cây, chuyên tâm tư duy quán chiếu về các pháp.
Tức thì, thiên ma Ba Tuần đến trước Phật, cúi đầu đảnh lễ, và bạch rằng:
“Ngày trước tôi đã xin Ngài hãy nhập niết-bàn, Ngài bảo rằng, bốn chúng đệ tử của Ngài là tì-kheo, tì-kheo-ni, ưu-bà-tắc và ưu-bà-di, chưa có đầy đủ, nên chưa vội nhập niết-bàn. Nay bốn bộ chúng của Ngài đã đầy đủ, những người đáng độ Ngài đã độ xong, vậy xin Ngài hãy nhanh chóng nhập niết-bàn.”
Đức Phật nói với ma vương rằng:
“Lành thay, này Ba Tuần! Ông nên biết, sau ba tháng nữa Như Lai sẽ nhập niết-bàn!”
Được đức Phật chuẩn hứa, thiên ma vui mừng hớn hở, liền đảnh lễ chân Phật, rồi trở về thiên cung.
Đức Phật đã hứa với thiên ma, sau ba tháng nữa sẽ nhập niết-bàn. Thế rồi, Ngài liền xả bỏ thọ mạng vô lượng, dùng thần lực duy trì mạng sống đến ba tháng nữa. Ngay lúc đó, đại địa chấn động sáu cách(27), ánh sáng mặt trời bị lu mờ, gió mưa bất thường, trời rồng và cả tám bộ chúng đều kinh hãi, kéo đến chỗ Phật, chật cả hư không.
Tôn giả A Nan trông thấy những hiện tượng khác thường ấy thì lo sợ vô cùng, liền đi nhanh về chỗ đức Phật, bạch rằng:
“Bạch đức Thế Tôn! Vì duyên cớ gì mà bỗng nhiên lại hiện ra những hiện tượng này?”
Đức Phật bảo tôn giả A Nan:
“Vừa rồi ma Ba Tuần đã đến khuyến thỉnh Như Lai hãy nhập niết-bàn. Như Lai đã hứa, cho nên đã xả bỏ thọ mạng, chỉ dùng thần lực để duy trì mạng sống trong ba tháng nữa.”
Tôn giả A Nan bạch Phật:
“Đức Thế Tôn thường dạy: Người đã tu tập thành tựu bốn phép như ý thì có thể duy trì thọ mạng đến tròn một kiếp hoặc ít hơn một kiếp, tùy ý tự tại. Tại sao đức Thế Tôn không trụ thế dài lâu?”
Đức Phật bảo tôn giả A Nan:
“Lúc nãy Như Lai có nói cho thầy điều đó, nhưng ma vương đã che mờ tâm trí thầy, cho nên thầy đã không biết thưa thỉnh. Bây giờ Như Lai đã hứa rồi, không thể trụ thế dài lâu hơn nữa được. Này A Nan! Thầy nên biết, tất cả các pháp đều không thể tồn tại vĩnh viễn!”
Tôn giả A Nan nghe những lời Phật dạy này thì ân hận vô cùng, lòng đau buồn áo não, khóc than thảm thiết, không thể tự kềm chế được!
Thế rồi, đức Phật lại cùng với tôn giả A Nan tiếp tục lên đường du hóa, xuyên qua ranh giới của các vương quốc, đến các thôn ấp xóm làng, nơi nào cũng nói pháp giáo hóa, số dân chúng được hóa độ đông đảo không thể kể xiết. Dần dà đức Phật đi đến thành Câu-thi-na (lãnh thổ của bộ tộc Lực-sĩ), vào rừng Ta-la song-thọ, bên bờ sông Hi-liên, bảo tôn giả A Nan rằng:
“Này A Nan! Thầy hãy trải giường cho Như Lai nằm đầu hướng về phương Bắc. Thân thể của Như Lai hiện rất đau nhức, vào nửa đêm hôm nay Như Lai sẽ nhập niết-bàn!”
Tôn giả A Nan vâng lời Phật dạy, trải giường xong, đức Phật liền nằm xuống, nghiêng người về bên tay phải. Tôn giả thấy đức Phật đã nằm yên rồi, bèn ẩn ở sau Phật, đau buồn khóc than, nước mắt ràn rụa. Đức Phật liền hỏi chư vị tì-kheo:
“Thầy A Nan đâu?”
Chư vị tì-kheo bạch:
“Thầy ấy đang đứng sau lưng đức Thế Tôn, đang đau buồn than khóc.”
Với tâm đại từ, đức Phật dùng Phạm âm nói với tôn giả A Nan rằng:
“Này A Nan! Thầy không nên khóc lóc như trẻ con! Vì sao vậy? Ở trong sinh tử, tất cả đều là như thế. Cho nên hãy chuyên cần tư duy quán tưởng về các pháp. Lâu nay thầy đã hầu hạ Như Lai bằng những hành động của thân, miệng và ý cực kì thuần thiện, chưa từng phạm một mảy may lỗi lầm nào. Từ nay thầy hãy chuyên tâm mong cầu giải thoát, dứt bỏ tâm bi thương, đừng tự đốt mình bằng lửa phiền não!”
Tôn giả A Nan bạch Phật:
“Bạch đức Thế Tôn! Sau khi đức Thế Tôn nhập niết-bàn, cách thức trà-tì phải làm như thế nào?”
Đức Phật dạy:
“Này A Nan! Hãy trà-tì theo cách thức của bậc Chuyển luân thánh vương. Dùng một ngàn tấm lụa sạch sẽ quấn quanh thân Như Lai, rồi rảy dầu thơm bên trong hòm vàng, lại đem hòm vàng để trong hòm bạc, lại đem hòm bạc để trong hòm đồng, lại đem hòm đồng để trong hòm sắt, rồi chất củi thơm mà hỏa thiêu. Hỏa thiêu xong thì thu thập xá-lợi, xây tháp để cúng dường.”
Đức Phật lại bảo tiếp:
“Này A Nan! Bây giờ thầy hãy vào thành, báo tin cho dân chúng bộ tộc Lực-sĩ biết rằng, nửa đêm hôm nay Như Lai sẽ nhập niết-bàn tại đây.”
Tôn giả A Nan vâng lệnh, liền đi vào thành Câu-thi-na, qua các con đường phố lớn nhỏ, đều lớn tiếng tuyên cáo rằng:
“Đức Như Lai, Ứng Cúng, bậc Đạo Sư của ba cõi, vào nửa đêm hôm nay sẽ nhập niết-bàn tại rừng Ta-la song-thọ. Quí vị nào muốn đến lễ bái cúng dường thì bây giờ là thời khắc thích hợp.”
Mọi người nghe như thế thì vô cùng sầu não, than rằng:
“Đức Thế Tôn diệt độ sao mà chóng thế! Từ nay chúng ta đã mất chỗ nương tựa.”
Họ vừa đi vừa khóc trên suốt con đường đi đến chỗ Phật.
Trong lúc đó, tại rừng Ta-la song-thọ, trời, rồng và tám bộ chúng đứng chật cả hư không, tất cả đều đau buồn áo não, đồng than rằng: “Thế gian nay đã mất đức Từ Phụ!” Rồi bảo nhau rằng: “Chúng ta đang còn chìm trong sinh tử, ai sẽ cứu vớt chúng ta đây?”
Lúc bấy giờ, trong thành có một vị phạm-chí tên là Tu Bạt Đà La, đã một trăm hai mươi tuổi, nghe tin vào lúc nửa đêm, đức Phật sẽ nhập niết-bàn tại rừng Ta-la song-thọ, bèn tức tốc đi đến chỗ Phật, thưa với tôn giả A Nan rằng:
“Tôi nghe nói đức Thế Tôn, bậc Nhất Thiết Trí, vào nửa đêm hôm nay sẽ nhập niết-bàn. Tôi có vài điều nghi hoặc, xin tôn giả cho tôi được yết kiến Ngài để thưa hỏi.”
Tôn giả A Nan thầm nghĩ: “Vị phạm-chí này từ lâu đã dính mắc nhiều thứ kiến chấp, chắc chắn hôm nay đến đây muốn cùng với đức Thế Tôn nghị luận; nhưng thân thể đức Thế Tôn đang đau nhức, đâu để ông ấy quấy rầy được!” Tôn giả bèn im lặng, không cho ông vào yết kiến Phật. Ông xin đến ba lần mà tôn giả vẫn im lặng. Nhưng từ xa, đức Phật đã nghe được lời cầu xin của ông, nên bảo tôn giả:
“Thầy hãy cho ông phạm-chí ấy vào! Đó là người đệ tử cuối cùng của Như Lai.”
Được vào yết kiến đức Phật, ông Tu Bạt Đà La vui mừng hớn hở, vội vàng cúi đầu đảnh lễ. Đức Phật giảng cho ông về tám nguyên tắc hành động chân chánh. Nghe xong bài pháp, ông liền chứng quả A-la-hán ngay tại chỗ ngồi. Ông bạch Phật rằng:
“Bạch đức Thế Tôn! Con mong nhờ đức Thế Tôn mà thoát ra khỏi biển khổ sinh tử. Nay con không cam lòng trông thấy đức Thế Tôn nhập niết-bàn, nên xin nguyện diệt độ trước!”
Thế rồi, ông nhập niết-bàn ngay ở trước đức Phật.
Bấy giờ là lúc nửa đêm, đức Phật nói pháp đã xong, thời khắc nhập niết-bàn đã đến, Ngài nói bài kệ rằng:
“Các chúng sinh có duyên
Ta đã hóa độ hết
Đêm yên tĩnh an hòa
Giờ niết-bàn đã đến!”
Đức Phật nói bài kệ ấy xong, liền nhập vào định Sơ-thiền; rồi ra định Sơ-thiền và vào định Nhị-thiền; ra định Nhị-thiền vào định Tam-thiền; ra định Tam-thiền vào định Tứ-thiền; ra định Tứ-thiền vào định Không-xứ; ra định Không-xứ vào định Thức-xứ; ra định Thức-xứ vào định Vô-sở-hữu-xứ; ra định Vô-sở-hữu-xứ vào định Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ; ra định Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ vào định Diệt-tận.
Bấy giờ, khắp cả chúng hội đều trông thấy toàn thân đức Phật đã bất động, bèn hỏi tôn giả A Na Luật rằng:
“Đức Thế Tôn đã nhập niết-bàn chưa?”
Tôn giả A Na Luật trả lời:
“Đức Thế Tôn đang nhập vào định Diệt-tận.”
Lúc ấy, đức Phật ra khỏi định Diệt-tận, rồi nhập lại vào định Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ; ra định Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ và vào lại định Vô-sở-hữu-xứ; ra định Vô-sở-hữu-xứ và vào lại định Thức-xứ; ra định Thức-xứ và vào lại định Không-xứ; ra định Không-xứ và vào lại Tứ-thiền; ra Tứ-thiền vào lại Tam-thiền; ra Tam-thiền vào lại Nhị-thiền; ra Nhị-thiền vào lại Sơ-thiền; rồi từ Sơ-thiền vào lại Nhị-thiền; ra Nhị-thiền vào Tam-thiền; ra Tam-thiền vào Tứ-thiền; ra Tứ-thiền vào Không-xứ; ra Không-xứ vào Thức-xứ; ra Thức-xứ vào Vô-sở-hữu-xứ; ra Vô-sở-hữu-xứ vào Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ; ra Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ vào định Diệt-tận; ngay nơi định này, đức Phật nhập niết-bàn! Tức thì đại địa chấn động, trời rồng, tám bộ chúng đau buồn, khóc than thảm thiết! Trời Đế Thích và Phạm Thiên Vương bèn nói kệ rằng:
“Sinh tử không chân thật
Lừa dối các chúng sinh
Hôm nay đức Mâu Ni
Vất bỏ như đờm dãi”
Bấy giờ các chúng sinh nói với nhau rằng: “Đức Thế Tôn diệt độ sao mà chóng thế! Lao ngục ba cõi còn biết nhờ ai mà được giải thoát!” Trong số các chúng sinh đó, có người thì lăn lộn trên mặt đất, có người thì ném bỏ chuỗi ngọc, có người thì vò đầu bức tóc, đấm ngực kêu gào.
Thế rồi tôn giả A Nan đi vào thành Câu-thi-na, thông báo cho khắp dân chúng bộ tộc Lực-sĩ rằng: “Vào nửa đêm hôm qua, đức Thế Tôn đã nhập niết-bàn. Quí vị nên cúng dường lễ trà-tì.” Dân chúng trong thành nghe tôn giả A Nan nói thế thì vô cùng buồn khổ, đều theo tôn giả đến rừng Ta-la. Họ hỏi tôn giả về cách thức trà-tì nhục thân của đức Phật. Tôn giả trả lời: “Hôm qua tôi đã thưa hỏi đức Thế Tôn về việc này. Ngài dạy, hãy làm theo cách thức trà-tì nhục thân một vị Chuyển luân thánh vương.” Rồi tôn giả đem lời dạy của đức Phật, tuần tự thuật lại cho họ biết. Họ liền sắm sửa đầy đủ các thứ để cúng dường, mọi việc đều làm đúng theo lời chỉ bảo của tôn giả A Nan, cho đúng với cách thức trà-tì nhục thân một vị Chuyển luân thánh vương.
Trong khi đó, ở trên thiên cung, đức thánh mẫu Ma Ha Ma Da thấy hiện ra năm tướng suy hoại: 1) Hoa trên đầu héo úa; 2) Dưới nách chảy mồ hôi; 3) Ánh sáng trên đỉnh đầu tắt mất; 4) Đôi mắt nhấp nháy liên hồi; 5) Không thích chỗ ngồi của mình nữa. Và cũng ngay trong đêm ấy, bà còn thấy năm giấc mộng dữ: 1) Mộng thấy núi Tu-di sụp đổ, nước bốn biển khô cạn; 2) Mộng thấy có nhiều quỉ la-sát, tay cầm dao bén, tranh nhau khoét mắt chúng sinh; lúc ấy, một ngọn gió đen thổi đến, đuổi hết các quỉ la-sát chạy vào núi Tuyết; 3) Mộng thấy chư thiên ở cõi Dục và cõi Sắc, bỗng nhiên mất chiếc mũ quí báu, xâu chuỗi ngọc anh lạc bị đứt, chỗ ngồi không yên ổn, thân mất ánh sáng, giống như đống mực; 4) Mộng thấy viên ngọc như ý ở trên trụ cờ cao, thường rơi châu báu xuống để chu cấp cho tất cả, nay có bốn con rồng độc dữ, miệng phun ra lửa, thổi ngã trụ cờ kia và nuốt mất viên ngọc như ý, rồi một ngọn gió lốc thổi mạnh đến, xô bốn con rồng ấy chìm xuống vực sâu; 5) Mộng thấy năm con sư tử từ trên không nhảy xuống, cắn ngực bà, rồi chui vào hông bên trái của bà, khiến thân tâm bà đau đớn như bị dao cắt.
Đức thánh mẫu Ma Ha Ma Da thấy năm giấc mộng dữ ấy xong, liền tỉnh dậy trong nỗi kinh hoàng! Bà tự nói với mình rằng: “Sao trong giấc ngủ, ta bỗng nhiên mộng thấy những việc chẳng lành, khiến cho thân tâm ta bất an! Ngày xưa, ở vương cung vua Tịnh Phạn, ta đã thấy một giấc mộng lành hi hữu. Ta mộng thấy một vị thiên tử thân màu hoàng kim, cỡi voi trắng, có các vị thiên tử khác tùy tùng, trỗi nhạc vi diệu, làm lu mờ ánh sáng mặt trời, chui vào hông phải của ta, khiến cho thân tâm ta vô cùng an lạc. Liền đó ta mang thai, rồi sinh ra thái tử Tất Đạt Đa, làm vinh hiển dòng tộc, soi sáng thế gian. Hôm nay thì năm giấc mộng này thật là đáng sợ. Chắc chắn đây là điềm dữ báo cho biết, con ta là Thích Ca Như Lai đã nhập niết-bàn!” Bà liền thuật lại năm giấc mộng dữ ấy cho các vị thiên tử nghe.
Bấy giờ, tôn giả A Na Luật thấy nhục thân của Phật đã nhập vào kim quan, liền lên cung trời Đao-lợi, đến chỗ của thánh mẫu Ma Ha Ma Da, nói bài kệ rằng:
“Bậc Đạo Sư tối thắng
Khéo dìu dắt chúng sinh
Nay đã xả thân mạng
Trong biển lớn vô thường
Tại rừng cây Ta-la
Gần thành Câu-thi-na
Nhục thân sẽ trà-tì
Cửa Đông thành Câu-thi
Trời người tám bộ chúng
Đau buồn khóc thảm thiết”
Tôn giả A Na Luật nói xong bài kệ ấy, liền trở về lại rừng Ta-la; còn thánh mẫu Ma Ha Ma Da, sau khi nghe tôn giả A Na Luật nói bài kệ ấy xong thì ngất xỉu, ngã lăn trên mặt đất, các thiên nữ phải lấy nước lạnh vẩy lên mặt bà, hồi lâu bà mới tỉnh lại. Bà vò đầu bứt tóc, vất bỏ đồ trang sức, buồn khóc nước mắt chảy ràn rụa. Rồi bà nói rằng: “Đêm hôm qua ta nằm mộng thấy năm việc dữ, ta đoán chắc đức Phật đã nhập niết-bàn. Quả nhiên hôm nay tôn giả A Na Luật đến báo cho biết đức Phật đã nhập diệt tại rừng Ta-la song-thọ; và không bao lâu nữa sẽ làm lễ trà-tì. Sao mà đau khổ dường này! Con mắt của thế gian diệt mất sao mà chóng thế! Đám ruộng phước của trời người giờ đây không còn nữa! Ngày xưa nơi vương cung vua Tịnh Phạn, ta mới sinh thái tử được bảy ngày thì liền mạng chung, chưa kịp bồng bế để biểu lộ tình mẹ con; đành phải phó thác thái tử cho Ma Ha Ba Xà Ba Đề, vốn là dì ruột của thái tử, thay ta dưỡng nuôi. Lớn lên đến mười chín tuổi, một hôm, vào nửa đêm, thái tử vượt thành ra đi, khiến cho khắp cả trong ngoài hoàng cung đều đau buồn thương nhớ. Sau đó thì Ngài chứng thành đạo quả, mở con mắt trí tuệ cho thế gian, che chở cho mọi loài chúng sinh giống như đấng cha lành. Thế mà vì sao bỗng chốc lại nhập niết-bàn! Quỉ dữ vô thường thật là hung bạo, đã hại mất người con Chánh Giác của ta!”
Thế rồi, ở giữa chúng, bà nói kệ rằng:
“Ta từ vô lượng kiếp
Cùng Ngài làm mẹ con
Nay Ngài thành Chánh Giác
Duyên này mới dứt hẳn
Và rồi bây giờ đây
Ngài lại nhập niết-bàn
Ví như cây cao lớn
Muôn chim làm chỗ trú
Buổi sáng bay tứ tán
Tối lại tụ tập về
Cùng nơi cây sinh tử
Ta, Ngài làm mẹ con
Ngài chứng thành đạo quả
Lìa hẳn cội cây này
Nay lại nhập niết-bàn
Không còn gặp nhau nữa”
Thánh mẫu Ma Ha Ma Da nói bài kệ ấy xong thì khóc than vô cùng áo não, không thể tự chế được. Bà liền cùng với vô lượng thiên nữ tấu thiên nhạc vi diệu, đốt hương, rải hoa, ca tụng tán thán, từ hư không xuống rừng Ta-la song-thọ. Từ xa, vừa nhìn thấy kim quan của Phật, bà lại hôn mê bất tỉnh, các thiên nữ phải vẩy nước vào mặt để cho bà tỉnh lại. Rồi bà tiến đến kim quan, cúi đầu đảnh lễ. Bà lại buồn khóc thảm thương, nước mắt ràn rụa, nói rằng: “Từ vô lượng kiếp trong quá khứ đến nay, từng làm mẹ con, chưa bao giờ xa cách; bỗng chốc hôm nay không còn thấy nhau nữa! Khổ thay! Chúng sinh đã hết phước, vẫn đang mê muội, ai sẽ là người dìu dắt họ đây!”
Bà dùng các thứ hoa trời rải lên kim quan của đức Phật, và nói kệ rằng:
“Giờ tại rừng Ta-la
Trời rồng tám bộ chúng
Chỉ nghe tiếng khóc than
Không biết nói những gì
Như bầy chim ríu rít
Không hiểu chúng nói gì
Đầy chật cả mặt đất
Như bầy chim gẫy cánh
Không thể bay lên cao
Thế Tôn nhập niết-bàn
Trải nhiều kiếp ân tình
Như chim già-ca-la
Giờ đây gió vô thường
Thổi mỗi con một ngả
Chúng sinh đang chịu khổ
Hi vọng pháp cam lồ
Giống như chim lan-đề
Trông đợi trời đổ mưa
Vì cớ gì giờ đây
Ngài vội nhập niết-ban
Thân nằm trong kim quan
Biết ta đến đây chăng?”
Thánh mẫu Ma Ha Ma Da nói bài kệ ấy xong, chợt nhìn thấy chiếc y tăng-già-lê, bình bát và tích trượng của đức Phật. Bà bèn dùng tay phải cầm lấy, tay trái tự vỗ vào đầu, lại ngã lăn xuống đất, như núi Thái đổ sập, rồi lại khóc lóc thảm thiết mà nói rằng: “Ngày trước con ta dùng những vật này mà tạo phước cho thế gian, làm lợi ích cho trời người; hôm nay chúng trở thành những vật vô chủ! Ôi, khổ thay! Đau đớn làm sao kể xiết!”
Bốn chúng đệ tử Phật và cả tám bộ chúng, thấy thánh mẫu Ma Ha Ma Da đau buồn như thế thì sầu não gấp bội, nước mắt chảy như mưa. Trời Đế Thích dùng thần lực khiến nước mắt ấy chảy thành dòng sông!
Bấy giờ đức Phật dùng thần lực khiến cho các nắp hòm trong ngoài đều tự động mở ra hết. Rồi từ trong kim quan, đức Phật ngồi dậy chắp tay, hướng về thánh mẫu Ma Ha Ma Da, dùng Phạm âm êm dịu chào hỏi bà: “Mẹ từ xa đã đến cõi Diêm-phù-đề này. Các pháp hành là như thế, xin Mẹ đừng buồn khổ khóc lóc!” Rồi Ngài nói kệ rằng:
“Trong tất cả ruộng phước
Ruộng phước Phật hơn hết
Trong tất cả người nữ
Ngọc nữ báu hơn hết
Hôm nay Mẹ của con
Không một ai sánh bằng
Đã sinh ra ba đời
Phật, Pháp và Tăng bảo
Con từ kim quan này
Xin hoan hỉ tán thán
Để báo ân sinh thành
Tỏ bày lòng hiếu thảo
Chư Phật tuy diệt độ
Pháp, Tăng bảo vẫn còn
Xin Mẹ đừng đau buồn
Quán các pháp vô thường”
Đức Phật nói bài kệ ấy xong, thánh mẫu Ma Ha Ma Da cảm thấy mình được an ủi phần nào, dung nhan dần dần xinh tươi trở lại như hoa sen. Bấy giờ, tôn giả A Nan trông thấy đức Phật đã ngồi dậy, lại nghe Ngài nói kệ, thì nghẹn ngào chảy nước mắt, nhưng tôn giả cố gắng kềm chế, bèn chắp tay bạch Phật rằng:
“Nếu sau này mọi người hỏi con rằng: Lúc đức Thế Tôn nhập niết-bàn, Ngài có nói điều gì không, thì con nên trả lời như thế nào?”
Đức Phật bảo tôn giả A Nan:
“Thầy nên trả lời như vầy: Sau khi đức Thế Tôn nhập niết-bàn, thánh mẫu Ma Ha Ma Da từ trên cõi trời Đao-lợi đã hạ giáng xuống chỗ kim quan. Lúc đó, đức Thế Tôn vì các chúng sinh bất hiếu trong đời sau, mà từ kim quan đã ngồi dậy trong tư thế mạnh mẽ như sư tử chúa, chắp tay hướng về đức thánh mẫu và nói bài kệ như trên.”
Tôn giả A Nan lại bạch:
“Bạch đức Thế Tôn! Kinh này tên gọi là gì? Và hành trì như thế nào?”
Đức Phật dạy:
“Này A Nan! Ngày trước Như Lai lên cung trời Đao-lợi vì mẫu thân Ma Ha Ma Da mà nói pháp; và chính bà cũng đã tự mình nói pháp. Bây giờ mẹ con lại gặp nhau ở nơi này. Cho nên, có thể gọi tên kinh này là Kinh Ma Ha Ma Da; cũng có thể gọi là Kinh Phật Lên Cung Trời Đao Lợi Vì Mẹ Nói Pháp; hoặc cũng có thể gọi là Kinh Mẹ Con Gặp Nhau Lúc Phật Nhập Niết Bàn. Thầy cứ y theo đó mà hành trì.”
Tới đây, đức Phật nói lời từ biệt với thánh mẫu Ma Ha Ma Da, bằng bài kệ rằng:
“Mạng sống con đã hết
Phạm hạnh lập từ lâu
Việc cần làm đã xong
Không còn thọ thân sau
Xin mẹ tự an ủi
Không đau buồn khổ não
Các hành đều vô thường
Vốn là pháp sinh diệt
Khi sinh diệt đã dứt
Tịch diệt là niềm vui”
Đức Phật nói bài kệ ấy xong, các nắp hòm trong ngoài đều đóng lại như cũ. Ba ngàn đại thiên thế giới đều chấn động. Thánh mẫu Ma Ha Ma Da cùng tám bộ chúng buồn khóc áo não, không thể tự kềm chế. Bấy giờ bà hỏi tôn giả A Nan:
“Con ta, lúc sắp diệt độ, có dạy bảo điều gì không?”
Tôn giả A Nan thưa:
“Bạch thánh mẫu! Vào lúc nửa đêm, đức Thế Tôn có dạy tóm lược cho các vị tì-kheo những pháp cốt yếu; rồi đem tất cả giáo pháp mà Ngài đã dạy trong bấy lâu nay, phó chúc cho tôn giả Ma Ha Ca Diếp và con, cùng gìn giữ, lưu bố.”
Đức thánh mẫu càng thêm cảm động, hỏi tiếp:
“Trong thời gian hầu hạ đức Thế Tôn trước đây, có lúc nào tôn giả nghe đức Thế Tôn nói trong tương lai, chừng nào chánh pháp diệt mất không?”
Tôn giả A Nan rớt nước mắt thưa:
“Bạch thánh mẫu! Lúc trước con đã từng được nghe đức Thế Tôn dạy, về sau này chánh pháp sẽ diệt mất như sau: Sau khi đức Thế Tôn nhập niết-bàn, tôn giả Ma Ha Ca Diếp cùng với con sẽ kết tập Pháp Tạng. Việc đó xong rồi thì tôn giả Ma Ha Ca Diếp sẽ vào trong núi Lang-tích nhập định Diệt-tận. Còn con thì cũng sẽ chứng được đạo quả, rồi sẽ nối tiếp nhập niết-bàn, bèn đem chánh pháp phó chúc cho tôn giả Ưu Ba Cúc Đa. Vị tôn giả này nói pháp khéo léo, hóa độ nhiều người, giống như tôn giả Phú Lâu Na; lại còn giáo hóa cho vua A Dục, khiến nhà vua phát khởi lòng tin chân chánh và kiên cố đối với Phật pháp, phát tâm xây tám vạn bốn ngàn ngôi tháp để thờ xá-lợi của Phật. 200 năm sau ngày Phật diệt độ, có tì-kheo Thi La Nan Đà khéo léo nói pháp, hóa độ mười hai ức người ở Diêm-phù-đề. 300 năm sau, có tì-kheo Thanh Liên Hoa Nhãn khéo léo nói pháp, hóa độ cho nửa ức người. 400 năm sau, có tì-kheo Ngưu Khẩu, nói pháp hóa độ được một vạn người. 500 năm sau, có tì-kheo Bảo Thiên, nói pháp hóa độ được hai vạn người, tám bộ chúng phát tâm bồ đề vô thượng. Tới đây thì chánh pháp suy vi. 600 năm sau có 96 phái ngoại đạo nổi lên, dùng tà kiến tranh nhau phá hoại Phật pháp. Bấy giờ có một vị tì-kheo tên là Mã Minh, khéo léo nói pháp, hàng phục tất cả các phái ngoại đạo. 700 năm sau, có vị tì-kheo tên là Long Thọ, khéo léo nói pháp, bẻ gẫy cây cờ tà kiến, đốt sáng ngọn đuốc chánh pháp. 800 năm sau, các tì-kheo chỉ ưa thích y phục, phóng túng vui chơi, trong trăm, ngàn người may ra có được một, hai người chứng quả. 900 năm sau, những người đầy tớ trai thì làm tì-kheo, những người đầy tớ gái thì làm tì-kheo-ni. 1.000 năm sau, các tì-kheo nghe nói đến pháp quán bất tịnh, quán hơi thở thì không thích, bèn nổi giận; trong vô lượng tì-kheo thì may ra mới có được một, hai người siêng tư duy quán chiếu. 1.100 năm sau, các tì-kheo sống như người thế tục, cũng cưới vợ, làm mai mối, lại còn hủy báng giới luật ngay giữa đại chúng. 1.200 năm sau, tì-kheo và tì-kheo-ni sống trái phạm hạnh, nếu sinh con, thì con trai cho làm tì-kheo, con gái cho làm tì-kheo-ni. 1.300 năm sau, áo cà-sa toàn màu trắng, không nhuộm thành hoại sắc. 1.400 năm sau, bấy giờ cả bốn chúng giống như thợ săn, ham thích sát sinh, đem bán các đồ đạc vật dụng của Tam Bảo. 1.500 năm sau, nước Câu-diệm-di có một vị tì-kheo tinh thông ba tạng, khéo léo nói pháp, độ được năm trăm đồ chúng; lại có một vị tì-kheo chứng quả A-la-hán, gìn giữ giới hạnh, cũng độ được năm trăm đồ chúng. Đến ngày Rằm làm lễ bố-tát, vị tì-kheo A-la-hán lên tòa thuyết giới, nói việc này nên làm, việc này không nên làm… Một đệ tử của vị tì-kheo tam tạng bèn hỏi gặn vị tì-kheo A-la-hán rằng: ‘Hiện giờ thân miệng của thầy không thanh tịnh, sao lại nói những lời thô lỗ như thế?’ Vị La-hán trả lời: ‘Từ lâu, ba nghiệp thân miệng ý của tôi đã thanh tịnh, không hề có lỗi lầm gì.’ Vị đệ tử của tì-kheo tam tạng nghe nói thế lại càng giận dữ, bèn giết chết vị tì-kheo La-hán ngay tại chỗ ngồi. Bấy giờ, đệ tử của vị A-la-hán bèn chất vấn đệ tử của tì-kheo tam tạng: ‘Những điều thầy tôi nói đều đúng với giáo pháp, tại sao các ông lại sát hại thầy tôi?’, liền dùng dao bén đâm chết tì-kheo tam tạng. Trời, rồng, tám bộ chúng không ai là không đau buồn về việc này; còn ác ma Ba Tuần và các phái ngoại đạo thì vui mừng nhảy nhót, tranh nhau phá chùa hủy tháp, sát hại các tì-kheo. Tất cả kinh tạng đều di chuyển đến nước Cưu-thi-na-kiệt; long vương A Nậu Đạt bèn gom hết đem về thủy cung. Thế là Phật pháp tận diệt!”
Đức thánh mẫu Ma Ha Ma Da nghe những sự việc ấy rồi, lại càng đau buồn áo não, bèn hướng về tôn giả A Nan nói kệ rằng:
“Tất cả đều hoại diệt
Không có gì thường còn
Tu-di và biển cả
Cũng có lúc tiêu tan
Bao nhiêu kẻ hào phú
Rốt cuộc cũng suy vong
Con ta từ nhiều kiếp
Chuyên cần tu muôn hạnh
Nay được thành Chánh Giác
Vì chúng nói kinh tạng
Rồi đây vì cớ gì
Tất cả đều diệt mất
Hỡi ơi! Pháp sinh tử
Đáng sợ, đáng xa lìa!”
Thánh mẫu Ma Ha Ma Da nói xong bài kệ ấy rồi, lại nói tiếp với tôn giả A Nan rằng:
“Đức Thế Tôn đã đem chánh pháp phó chúc cho thầy và tôn giả Đại Ca Diếp, vậy thầy nên tinh cần hộ trì, đọc tụng và giảng nói. Bây giờ thì ta không đành lòng nhìn thấy giờ phút trà-tì đức Thế Tôn!”
Thế rồi, bà đảnh lễ kim quan của Phật, nước mắt chảy ròng ròng, đi nhiễu bên phải quanh kim quan bảy vòng, và trở về thiên cung.
Trong lúc đó, tại rừng Ta-la song-thọ, trời người tám bộ chúng, tì-kheo, tì-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, chứng kiến cảnh tượng đức Phật cùng với mẫu thân gặp nhau, và được nghe những lời trao đổi qua lại giữa hai Ngài, có người phát tâm cầu đạo vô thượng, có người chứng quả Tu-đà-hoàn, có người chứng quả Tư-đà-hàm, có người chứng quả A-na-hàm, có người chứng quả A-la-hán, hoặc có người phát tâm cầu quả Phật Bích-chi; tất cả đại chúng đều phát nguyện hộ trì và cung kính phụng hành lời Phật dạy.
(Kinh Ma Ha Ma Da, cư sĩ Hạnh Cơ trích dịch từ Tạng Đại Chánh, quyển 12, kinh số 383, trang 1005-1014.)
CHÚ THÍCH:
01) Ma Ha Ma Da (Mahamaya): là em gái của vua Thiện Giác ở vương quốc Câu-lị, nước láng giềng phía Đông của vương quốc Thích-ca. Bà cùng với em gái là Ma Ha Ba Xà Ba Đề đều được gả cho vua Tịnh Phạn của vương quốc Thích-ca; bà là hoàng hậu, và bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề là thứ hậu. Hoàng hậu Ma Ha Ma Da, sau khi sinh thái tử Tất Đạt Đa được bảy ngày thì tạ thế, và được sinh lên cõi trời Đao-lợi. Bấy giờ, bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề liền được vua Tịnh Phạn đưa lên ngôi hoàng hậu, và được giao cho nhiệm vụ nuôi nấng thái tử cho đến khi khôn lớn.
02) Cõi Trời Đao Lợi: tức cõi trời Ba-mươi-ba (Trayastrimsa-deva), tọa lạc ngay trên đỉnh núi Tu-di, chia làm 33 cung, là tầng trời thứ nhì của sáu tầng trời cõi Dục. Chúa của cõi trời này là trời Đế Thích (hoặc: Thiên Đế Thích, Thích Đề Hoàn Nhân, Nhân Đà La, Kiều Thi Ca, v.v... – Sakra Devanam-indra), ngự tại cung trung ương. Ở bốn phương chung quanh, mỗi phương có tám cung (cộng cả thảy là 33 cung). Thiên chúng ở cõi trời này sống lâu một ngàn tuổi (một ngày đêm ở đây dài bằng một trăm năm ở nhân gian). Họ cũng dựng vợ gả chồng, sự dâm dục giống như ở cõi nhân gian. Em bé mới sinh ra đã lớn bằng em bé sáu tuổi ở nhân gian, y phục tự có đầy đủ.
03) Phạm âm: là giọng nói, âm thanh của Đại Phạm Thiên Vương; cũng dùng để chỉ cho ngôn ngữ đặc biệt của đức Phật, khác với ngôn ngữ Ngài dùng thường ngày.
04) Năm Nẻo Đường: là năm cảnh giới trong vòng luân hồi mà chúng sinh triền miên qua lại do nghiệp lực dẫn dắt: Trời, Người, Bàng-sinh, Ngạ-quỉ, Địa-ngục.
05) Sáu Trần Cảnh: tức sáu đối tượng của sáu căn (giác quan), gồm có:
- Cảnh sắc (sắc) là đối tượng của mắt (nhãn căn)
- Âm thanh (thanh) là đối tượng của tai (nhĩ căn)
- Mùi (hương) là đối tượng của mũi (tị căn)
- Vị (vị) là đối tượng của lưỡi (thiệt căn)
- Xúc chạm (xúc) là đối tượng của thân thể (thân căn)
- Ý tượng (pháp) là đối tượng của ý (ý căn)
06) Năm Dục: Tất cả những gì có sức quyến rũ con người trong cõi Dục này, được giáo lí Phật giáo bao gồm trong 5 thứ. Chúng là đối tượng ham muốn của con người. Năm thứ dục ấy là:
1. Tiền của (tài): chỉ cho tất cả những thứ gì có thể làm thành tài sản vật chất của con người.
2. Sắc dục (sắc): cũng gọi là ái dục, tức là đời sống tình dục, lạc thú thể xác của con người.
3. Danh vị (danh): danh vọng và địa vị của con người trong xã hội.
4. Ăn uống (thực): những gì có thể nuôi sống thân mạng con người.
5. Ngủ nghỉ (thụy): sự ngủ nghỉ và tất cả những gì liên quan đến nó.
Mặt khác, năm thứ dục vọng cũng là năm thứ trần cảnh sau đây:
1. Các thứ hình sắc ở trần gian (sắc – đối tượng tham dục của mắt).
2. Các thứ âm thanh (thanh – đối tượng tham dục của tai).
3. Các loại mùi hương (hương – đối tượng tham dục của mũi).
4. Các loại vị nếm (vị – đối tượng tham dục của lưỡi).
5. Các sự chạm xúc của da thịt (xúc – đối tượng tham dục của thân thể).
07) Năm Tướng suy hoại: Người ở cõi trời, khi sắp chết thì hiện ra năm tướng suy hoại. Kinh Niết Bàn nói: “Trời Đế Thích, lúc mạng sắp hết thì có năm tướng hiện ra: 1) Quần áo bẩn thỉu, 2) Đầu tóc rũ rợi như hoa héo, 3) Thân thể hôi hám, 4) Nách đổ mồ hôi, 5) Không thích chỗ ngồi của mình.”
08) Ba Cõi (tam giới): Ba cõi cũng tức là vòng sinh tử luân hồi. Các kinh luận thường dạy rằng, tất cả mọi loài chúng sinh đều có sẵn khả năng giác ngộ (Phật tính), nhưng vì bị các kiến chấp sai lạc làm cho mờ tối nhận thức, khiến không tự phát hiện và thắp sáng được khả năng ấy, cho nên cứ phải quanh quẩn mãi trong ba cõi. Còn ở trong ba cõi là còn bị phiền não chi phối. Chỉ khi nào đạt được quả vị giác ngộ thì mới được giải thoát ra khỏi ba cõi – tức là thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Ba cõi đó là:
1. Cõi Dục (Dục giới). “Dục” là ham muốn. Cõi Dục là cõi của thực phẩm, ước muốn vật chất và dục vọng thể xác. Chúng sinh trong cõi này vì đam mê theo các “thú vui” về sắc tướng, âm thanh, mùi hương, ăn uống, chạm xúc và dâm dục cho nên luôn luôn gây ra nhiều tội lỗi, tai họa và khổ đau. Các loài chúng sinh trong cõi Dục này gồm có: Người, A-tu-la, Địa-ngục, Ngạ-quỉ và Súc-sinh. Cũng bao gồm trong phạm vi cõi Dục này còn có 6 cõi Trời, tuy hưởng được nhiều phước báo hơn loài Người, nhưng vẫn là những phước báo tạm bợ, và trí tuệ thì không hơn loài Người. Chúng sinh trong 6 cõi này vẫn có hình sắc, nhưng phần vật chất của họ vô cùng vi tế, mắt người thường không thể trông thấy được. Họ đều là hóa sinh, cũng mang hình thể nam, nữ, với đầy đủ các thứ dục vọng như con người. Sáu cõi trời của cõi Dục (Lục Dục Thiên) này, từ thấp lên cao gồm có: Tứ-vương, Đao-lợi (cũng gọi là cõi trời Ba-mươi-ba – tam thập tam thiên), Dạ-ma, Đâu-suất, Hóa-lạc và Tha-hóa-tự-tại.
2. Cõi Sắc (Sắc giới). “Sắc” là hình tướng, vật chất. Đây là cõi của các vị Phạm Thiên, có hình tướng, vật chất như thân thể, cung điện v.v..., nhưng rất vi tế, đẹp đẽ, tinh diệu. Các vị trời ở đây không có tướng nam nữ, không có tham dục như ở cõi Dục, chỉ sống trong thiền định. Tùy theo mức độ cao thấp của thiền định, cõi Sắc được chia làm 4 bậc, gồm 18 cõi Trời:
a) Cõi Sơ-thiền (Sơ-thiền thiên), gồm 3 cõi Trời: Phạm-chúng (các vị trời tùy tùng của các vị Phạm Thiên), Phạm-phụ (các vị trời thân cận các vị Phạm Thiên), Đại-phạm (các vị Phạm Thiên có nhiều hạnh phúc, đẹp đẽ, tuổi thọ cao nhất trong cõi Sơ-thiền). Các vị Phạm Thiên ở các cõi này có thân thể khác nhau, nhưng cách suy nghĩ thì đều giống nhau, và trong tám thức thì không còn có tị thức và thiệt thức hoạt động.
b) Cõi Nhị-thiền (Nhị-thiền thiên), gồm 3 cõi Trời: Thiểu-quang (các vị Phạm Thiên có chút ít ánh sáng), Vô-lượng-quang (các vị Phạm Thiên có ánh sáng vô cùng), Quang-âm (các vị Phạm Thiên có ánh sáng rực rỡ). Cõi Nhị-thiền này có rất nhiều ánh sáng. Các vị Phạm Thiên ở đây đều có thân thể giống nhau nhưng cách suy nghĩ thì khác nhau, và trong tám thức thì từ cõi Nhị-thiền này trở lên, cả năm thức cảm giác đều không còn hoạt động.
c) Cõi Tam-thiền (Tam-thiền thiên), gồm 3 cõi Trời: Thiểu-tịnh (có hào quang nhỏ), Vô-lượng-tịnh (có hào quang vô hạn), Biến-tịnh (có hào quang không xao động). Cõi Tam-thiền này mọi sự đều thanh tịnh, cả thân và tâm của các vị Phạm Thiên đều hoàn toàn giống nhau.
d) Cõi Tứ-thiền (Tứ thiền thiên), gồm 9 cõi Trời: Vô-vân (cảnh giới quang đãng), Phước-sinh (cảnh giới trường cửu), Quảng-quả (hưởng phước báo rộng lớn), Vô-tưởng (không còn tư tưởng), Vô-phiền (hoàn toàn tinh khiết), Vô-nhiệt (hoàn toàn thanh tịnh), Thiện-kiến (cảnh giới đẹp đẽ), Thiện-hiện (hoàn toàn tự tại), Sắc-cứu-cánh (cảnh giới tối thượng). Đây là cõi cao nhất của Sắc giới, chúng sinh sống trong cảnh giới thiền định sâu xa, hoàn toàn tịch tịnh, chẳng những năm thức cảm giác mà cả ý thức cũng không còn hoạt động nữa.
3. Cõi Vô-sắc (Vô-sắc giới). Cõi này hoàn toàn không còn có vật chất, hình thể, cho nên cũng không có tướng nam nữ, không có dục vọng, mà chỉ thuần có nghiệp thức trú trong các cảnh giới thiền định thâm diệu. Đây là cõi cao nhất trong ba cõi, gồm có 4 cõi Trời:
a) Cõi Không-gian vô-biên (Không vô biên xứ thiên): Cảnh giới của các vị trời chỉ thấy có không gian vô biên, đã đạt được và đang an trú trong trạng thái thiền định gọi là không vô biên xứ định.
b) Cõi Tâm-thức vô-biên (Thức vô biên xứ thiên): Cõi chỉ thấy có tâm thức vô biên, là cảnh giới của chư thiên đã đạt được và đang an trú trong trạng thái thiền định gọi là thức vô biên xứ định.
c) Cõi Vô-sở-hữu (Vô sở hữu xứ thiên): Cõi này không còn có bất cứ một hiện tượng gì, là cảnh giới của chư thiên đã đạt được và đang an trú trong trạng thái thiền định gọi là vô sở hữu xứ định.
d) Cõi Phi-tưởng phi-phi-tưởng (Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên): Cõi này không có tri giác mà cũng không phải là không có tri giác, là cảnh giới của chư thiên đã đạt được và đang an trú trong trạng thái thiền định gọi là phi tưởng phi phi tưởng xứ định.
09) Mười Điều Lành (thập thiện): Một hành động được gọi là “thiện” khi nó đem lại sự an vui, hạnh phúc, giải thoát và giác ngộ cho mình, cho mọi người và mọi loài. Ngược lại thì là “ác”, hay “bất thiện”. Người tu học thì dĩ nhiên suốt đời chỉ nguyện làm việc thiện và tránh làm tất cả những việc bất thiện. Một cách tổng quát, có mười loại việc thiện như sau:
1. Không giết hại sinh mạng cũng như không tán thành và khuyến khích sự giết hại. Phải tìm mọi cách có thể để bảo vệ sinh mạng.
2. Không lấy làm tư hữu những tiền bạc và của cải không do chính mình tạo ra hoặc không do người khác biếu tặng. Không gây dựng tài sản bằng những phương cách bất hợp pháp. Phải tôn trọng quyền tư hữu của người khác.
3. Dù là độc thân hay đã lập gia đình cũng không được phá hoại danh dự và hạnh phúc của bản thân hoặc gia đình mình, cũng như của người hoặc gia đình người khác, tức là không tà hạnh, không ăn nằm với những người chưa hoặc không phải là vợ hay chồng mình. Phải tích cực bảo vệ danh dự và hạnh phúc cho bản thân và gia đình mình cũng như cho người và gia đình người khác.
4. Không nói những lời dối trá, thêu dệt, điêu ngoa, xúc siểm nhằm khoa trương và mưu cầu danh lợi, địa vị cho mình, hoặc để vu oan giá họa cho người. Phải thành thật nhìn nhận những sai lầm của mình để hối cải. Phải luôn luôn đối xử chân thật với mọi người.
5. Không nói lời li gián nhằm gây nên không khí bất hòa giữa những người khác, tạo sự chia rẽ và đổ vỡ trong tổ chức, đoàn thể. Phải nói lời xây dựng, hòa giải. Phải tạo sự đoàn kết giữa mọi người.
6. Không nói lời ác độc, hung dữ, cộc cằn, lỗ mãng như cãi vã to tiếng, chửi mắng hay nguyền rủa, tạo nên sân hận, oán thù. Phải nói lời ôn hòa, nhã nhặn, dịu dàng nhằm tạo sự thông cảm, thương yêu, hòa điệu.
7. Không nói những lời thô tục, dâm đãng. Không dùng lời lẽ trau chuốt ngọt ngào cốt mê hoặc, dụ dỗ người. Không lên án hoặc rao truyền những điều mà mình không thấy biết rõ ràng, chính xác. Không nói những lời gây hoang mang cho mọi người. Phải nói những điều đứng đắn và xác thực hầu đem lại sự hiểu biết chính đáng cho người.
8. Không để cho tâm tham dục điều khiển mình. Phải thường xuyên tỉnh thức, không để cho bị quyến rũ bởi năm thứ dục vọng rồi lấy đó làm mục đích chính của đời mình. Phải biết sống giản dị để dùng thì giờ và khả năng của mình phụng sự xã hội. Phải biết san sẻ những gì mình có thể san sẻ được để giúp đỡ người trong mọi hoàn cảnh khổ đau.
9. Phải ngăn ngừa, đừng để cho tâm sân hận và oán thù phát sinh. Nếu nó đã phát sinh thì đừng để nó tồn tại và phát triển, mà phải tìm mọi cách hữu hiệu (như theo dõi hơi thở, quán niệm về từ bi và duyên sinh chẳng hạn) để tiêu diệt nó ngay. Luôn luôn đối xử với mọi người bằng thái độ hòa nhã, khiêm tốn và vui vẻ.
10. Không có thái độ cuồng tín đối với những điều không do trí tuệ soi sáng. Không mù quáng tin theo những tà thuyết trái chống với những nguyên lí nhân quả, duyên sinh, vô thường, vô ngã v.v... Không cố thủ những tri kiến sai lầm của mình và gạt bỏ tri kiến của người. Không phẩm bình người khác bằng những thành kiến hẹp hòi, cố chấp của mình.
Mười việc thiện trên đây là những nguyên tắc hướng dẫn cuộc sống gia đình và xã hội của đạo Phật, được dùng làm giới luật hành trì cho chúng cư sĩ tại gia, cho nên cũng được gọi là “Giáo luật mười việc thiện” (thập thiện giới), có thể đọc tụng tại gia đình mỗi tháng một hay hai lần.
10) Thành càn-thát-bà: Càn-thát-bà là vị thần chuyên hòa tấu nhạc để hầu hạ trời Đế Thích; lại giỏi ảo thuật, có thể làm cho xuất hiện trên mặt biển hình bóng của lâu đài thành quách, nhưng chỉ xuất hiện trong phút chốc rồi tiêu mất, cho nên gọi là “thành càn-thát-bà”. Nói chung, những cảnh tượng như lầu các, thành quách v.v… xuất hiện trên mặt biển, nơi đồng trống, sa mạc, là do hơi nước, hơi nóng của ánh nắng mặt trời hóa hiện ra, chỉ là ảo ảnh xuất hiện trong không gian, không có thật thể. Cho nên, trong kinh điển Phật giáo, thuật ngữ “thành càn-thát-bà” thường được sử dụng để chỉ cho các pháp hư huyễn, giả tạm, không chân thật, không thường còn.
11) Phật Bích-chi: là quả vị chứng đắc của Duyên-giác thừa. “Bích-chi Phật” là tiếng dịch âm từ Phạn ngữ “Pratyeka-buddha”, dịch ý ra Hán ngữ là Duyên-giác, hay Độc-giác; chỉ cho những vị không có đạo sư hướng dẫn, mà một mình tự giác, tự ngộ để đạt thành quả vị thánh nhân. Hành giả sinh trong đời không có Phật tại thế, Phật pháp đã diệt mất, nhưng do nhân duyên tu tập đời trước, không theo học ai, tự phát sinh trí tuệ mà ngộ đạo, đó là bậc Độc-giác. Hành giả sinh trong đời có Phật hoặc không có Phật tại thế, không theo học ai, tự mình có trí tuệ, cảm nhận tính vô thường, hoại diệt của thế gian, thích ở nơi tịch tĩnh, quán sát thấu rõ đạo lí mười hai nhân duyên mà ngộ đạo, đó là bậc Duyên-giác.
12) Chiên-đà-la: là hạng người thấp kém nhất, đứng ngoài cả bốn giai cấp (bà-la-môn, sát-đế-lị, phệ-xá, thủ-đà-la) trong xã hội Ấn-độ thời cổ đại. Đây là hạng người hạ tiện, bị mọi người trong bốn giai cấp trên khinh bỉ, không muốn đụng tới. Họ chuyên làm những công việc hung dữ, dơ dáy (như mổ giết súc vật, gánh phân, v.v…) mà những hạng người trên không ai làm.
13) Trọng tội ngũ nghịch. Hoàn toàn trái với đạo lí, gọi là “nghịch”. Năm loại tội ác cực kì trái đạo lí, gọi là “năm tội nghịch”, hay “tội ngũ nghịch”, đều chiêu cảm quả báo ác ở địa ngục Vô-gián, cho nên cũng được gọi là “năm tội Vô-gián” (ngũ Vô-gián tội); gồm có: giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, làm thân Phật chảy máu, và phá sự hòa hợp của tăng đoàn. Chỉ cần phạm một trong năm tội ác đó là đủ để đọa vào địa ngục Vô-gián. Đó là năm tội rất nặng, cho nên gọi là “trọng tội”.
14) Kiếp. Thông thường chúng ta hay nói: kiếp trước, kiếp này, kiếp sau, v.v… Chữ “kiếp” đó có nghĩa là một đời người trong khoảng mấy chục hay một trăm năm, kể từ ngày sinh ra đời cho đến ngày chết. Trong kinh điển Phật giáo, chữ “kiếp” được dùng với ý nghĩa khác hẳn, không phải là một trăm năm, và không phải là quá ngắn ngủi như thế.
“Kiếp” là tiếng nói tắt của Phạn ngữ “kiếp-ba” (kalpa); dịch ra Hán ngữ là “thời phần” hay “đại thời”, nghĩa là một khoảng thời gian rất dài, không thể nào dùng số ngày, tháng, năm thông thường mà đếm được. Kiếp có đại, trung và tiểu khác nhau. Các kiếp đại, trung hay tiểu này đều y nơi mạng sống tăng và giảm của con người mà tạm tính toán. Theo như luận Đại Trí Độ nói, thọ mạng của con người từ mười tuổi, cứ mỗi một trăm năm tăng một tuổi, tăng cho đến tám vạn bốn ngàn tuổi thì ngưng; rồi lại cứ một trăm năm giảm một tuổi, giảm cho đến còn mười tuổi thì ngưng; một lần tăng và một lần giảm như vậy là một tiểu kiếp. Hai mươi tiểu kiếp là một trung kiếp. Trải qua bốn trung kiếp Thành, Trụ, Hoại và Không (hoặc tám mươi tiểu kiếp) là một đại kiếp. Đó là thời gian của một thế giới từ lúc hình thành cho đến lúc hủy diệt.
Vậy:
- Một tiểu kiếp = (84000 - 10) x 100 x 2 = 16.798.000 năm.
- Một trung kiếp = 20 tiểu kiếp = 16798000x20 = 335.960.000 năm.
- Một đại kiếp = 4 trung kiếp = 335960000x4= 1.343.840.000 năm.
15) Kết sử: tức là “kết” và “sử”, đều là tên gọi khác của phiền não. “Kết” nghĩa là thắt buộc; “sử” nghĩa là sai khiến. Các thứ phiền não trói buộc chúng sinh trong vòng sinh tử luân hồi, cho nên được gọi là “kết”; theo đuổi và sai khiến chúng sinh tạo nghiệp, cho nên được gọi là “sử”.
“Kết” có 9 loại phiền não: ái (tham), nhuế (sân), vô minh (si), kiêu (kiêu mạn), nghi (nghi ngờ), tật (ganh ghét), xan (keo kiệt), kiến (tà kiến), thủ (chấp trước). “Oán kết” là phiền não oán hận cứ đeo dính, đóng cứng trong tâm ý, ảnh hưởng trực tiếp tới tâm ý, cho nên cũng được gọi là “nội kết”.
“Sử” có 10 loại phiền não: tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến.
16) Bốn châu: Diêm-phù-đề, Cù-da-ni, Phất-bà-đề và Uất-đan-việt là bốn châu lục có loài người sinh sống. Theo thế giới quan của người Ấn-độ thời cổ đại, trong vũ trụ có vô lượng vô số thế giới. Thế giới là một đơn vị (gọi là “một thế giới”), gồm có núi Tu-di ở trung tâm, bao chung quanh có 9 núi, 8 biển, mặt trời, mặt trăng, sao, và 4 châu (cũng gõi là “bốn châu thiên hạ”).
Từ trung tâm núi Tu-di, chia ra bốn phương Đông, Nam, Tây, Bắc, mỗi phương có một châu, đều là nơi cư trú của loài người.
1. Châu ở phương Đông có tên là Phất-bà-đề, tức châu Thắng-thân (Đông Thắng-thân châu), địa hình giống như một nửa mặt trăng, khuôn mặt của người ta cũng giống như vậy. Vì loài người ở đây có thân hình thù thắng, nên châu ấy được gọi là “thắng-thân”. Điểm đặc biệt của châu này là rất rộng, rất lớn, vô cùng kì diệu.
2. Châu ở phương Nam có tên là Thiệm-bộ (Nam Thiệm-bộ châu – cũng gọi là Diêm-phù-đề), địa hình trông giống như cái thùng xe, khuôn mặt người ta cũng giống như vậy. Vì ở châu này đặc biệt có nhiều cây thiệm-bộ (cây bồ-đào), nên gọi là “Thiệm-bộ”. Loài người ở châu này mạnh mẽ, có trí nhớ tốt, có thể tạo nghiệp ác, mà cũng có thể tu hành phạm hạnh, có Phật ra đời để cứu độ; đó là những điểm đặc biệt của châu này hơn cả ba châu kia.
3. Châu ở phương Tây có tên là Cù-da-ni, tức châu Ngưu-hóa (Tây Ngưu-hóa châu), địa hình giống như mặt trăng tròn, khuôn mặt người ta cũng giống như vậy. Vì ở châu này loài người dùng trâu trong việc mậu dịch, nên gọi là “Ngưu-hóa”. Đặc điểm của châu này là có nhiều trâu, nhiều dê, nhiều châu ngọc.
4. Châu ở phương Bắc có tên là Uất-đan-việt, tức châu Câu-lư (Bắc Câu-lư châu), địa hình bằng thẳng, giống như hồ nước, khuôn mặt người ta cũng giống như vậy. Loài người ở châu này có đời sống sung sướng, tốt đẹp hơn hết so với ba châu kia, nên gọi là “Câu-lư”. Người ở châu này có quả báo tốt đẹp, hưởng nhiều thú vui, ít có sự khổ, sống lâu ngàn tuổi; nhưng vì nơi đây không có Phật pháp, nên con người không biết tu hành để gieo trồng thiện căn, thọ mạng hết liền bị đọa lạc, cho nên châu này là một trong tám nạn (bát nạn) đối với người tu hành.
17) Hành: Trong Phật học, chữ “hành” mang nhiều ý nghĩa, trong đó, ý nghĩa đặc biệt quan trọng là chỉ cho các pháp hữu vi – như trong thuật ngữ “chư hành vô thường”. Chữ “hành” ở đây có nghĩa là trôi chảy và biến đổi. Nó được dùng để chỉ cho tất cả các pháp do nhân duyên mà sinh diệt, luôn luôn chuyển biến và trôi chảy không ngừng. Như vậy, phạm vi của “hành” thật là rộng rãi bao la, bao gồm mọi lãnh vực thuộc tâm, sinh và vật lí. Nói cách khác, “hành” chính là tất cả các pháp hữu vi. Tất cả năm uẩn đều là hành; sở dĩ chia chẻ ra năm nhóm sắc, thọ, tưởng, hành, thức, là cốt để cho dễ nhận thấy từng yếu tố quan trọng mà thôi.
Một ý nghĩa quan trọng khác, “hành” là chỉ cho tất cả những tư tưởng (ý), lời nói (khẩu) và hành động (thân) thiện và bất thiện, phát xuất từ tham, sân, si v.v... (tức vô minh) của con người. Tất cả các hành này, vì bị tác động bởi vô minh, chắc chắn sẽ phải tạo nghiệp, làm cho hành trình của dòng sống luân hồi cứ kéo dài mãi. Ngược lại, tất cả những tư tưởng, lời nói và hành động phát sinh bởi trí tuệ, hoàn toàn trong sạch (vượt ra ngoài ý niệm thiện và bất thiện), tuyệt đối không phát xuất từ tham, sân, si v.v..., thì không phải là hành; vì chúng có công năng phá trừ vô minh, giúp chúng sinh vượt thoát đại dương sinh tử.
18) Tám bộ chúng (bát bộ chúng, cũng gọi là thiên long bát bộ): là tám chúng quỉ thần được Phật cảm hóa và phát tâm bảo vệ Phật pháp, mắt người không thể thấy được, gồm có: trời (thiên), long (rồng), dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già.
19) Bốn chúng đệ tử (tứ chúng): chỉ cho bốn chúng đệ tử của Phật, gồm có: tì-kheo (chư tăng), tì-kheo-ni (chư ni), ưu-bà-tắc (cư-sĩ nam), ưu-bà-di (cư-sĩ nữ); hoặc cũng chỉ cho bốn chúng xuất gia: tì-kheo, tì-kheo-ni, sa-di, sa-di-ni.
20) Mười hai nhân duyên (thập nhị nhân duyên). Đoạn kinh này đức Phật dạy về nguyên lí “Mười Hai Nhân Duyên”, là một trong những giáo pháp trọng yếu của đạo Phật. Đó là mười hai điều kiện tương liên, là đạo lí căn bản của đạo Phật dùng để giải thích cái “bí ẩn” của hiện tượng sinh tử luân hồi, tức là sự hiện hữu của chúng sinh – mà trực tiếp là con người. Mười hai điều kiện ấy gồm có:
1. Vô minh: là trạng thái vô ý thức, mù quáng, mê lầm, không sáng suốt, không nhận chân được thực tướng của vạn pháp, không thấy rõ được tự tính của chính mình, do đó mà dẫn tới những hành động u tối, sai lầm.
2. Hành: là tác động vô thức của ý chí sinh tồn theo hướng vô minh đã thúc đẩy tạo nghiệp. Nó là khát vọng muốn sống một cách mù quáng. Tất cả những tư tưởng (ý), lời nói (ngữ) và việc làm (thân) thiện hay bất thiện đều nằm trong hành.
3. Thức: Tất cả nghiệp nhân đã tạo ra đều được huân tập vào nghiệp chủng thức (hay nghiệp thức, tức là a-lại-da thức). Thức này đi đầu thai và bắt đầu một sinh mạng mới. Lúc bà mẹ thụ thai, chính đó là lúc nghiệp thức kết hợp với tinh trùng và noãn châu của cha mẹ mà làm nên bào thai. Như vậy, thức chính là yếu tố nối tiếp giữa kiếp quá khứ và kiếp hiện tại, và là giai đoạn đầu tiên của đời sống hiện tại.
4. Danh sắc: Do nghiệp thức phát động mà phát hiện ra các hiện tượng tinh thần (danh) và vật chất (sắc) của bản thân con người. Đây là giai đoạn thứ hai của đời sống hiện tại. Bản thân con người là một “hợp thể ngũ uẩn”, trong đó, bốn uẩn thọ, tưởng, hành, thức chỉ có tên gọi mà không có hình chất, không thể thấy, nghe, ngửi, nếm và chạm xúc được, nên gọi là “danh”; còn uẩn sắc tức là phần sinh lí của bản thân, do bốn nguyên tố (tứ đại: địa, thủy, hỏa, phong) cấu thành, có hình chất, màu sắc, mùi, vị, có thể thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm xúc được, nên gọi là “sắc”. Trong giây phút đầu tiên khi bà mẹ thụ thai – tức là lúc nghiệp thức kết hợp với tinh trùng và noãn châu của cha mẹ, thì danh chính là nghiệp thức, và sắc chính là tinh trùng và noãn châu. Vậy, nếu hành và thức là hai yếu tố thuộc về hai kiếp quá khứ (hành) và hiện tại (thức) của một chúng sinh, thì thức và danh sắc, trái lại, được xuất hiện cùng lúc trong kiếp hiện tại của chúng sinh đó.
5. Lục nhập: Sáu giác quan (lục căn: nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý) dần dần hiện rõ theo sự phát triển của bào thai, từ chỗ thật giản dị lúc mới được tượng hình, trở thành vô cùng phức tạp khi con người đã trưởng thành toàn diện. Chúng hoạt động một cách hoàn toàn tự nhiên, mầu nhiệm, như một guồng máy tinh diệu. Mỗi giác quan đều có những hoạt động và đối tượng riêng biệt. Sáu giác quan là sáu chỗ để cho sáu đối tượng (lục trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) phản ảnh vào, gọi chung là “lục nhập”.
6. Xúc: là sự tiếp xúc giữa các giác quan và đối tượng của chúng, như mắt tiếp xúc (thấy) cảnh vật, tai tiếp xúc (nghe) âm thanh, mũi ngửi mùi v.v...
7. Thọ: là cảm giác gây nên do sự tiếp xúc giữa các giác quan với đối tượng. Có loại cảm giác dễ chịu, vui sướng, hạnh phúc, gọi là “lạc thọ”; có loại cảm giác khó chịu, buồn phiền, khổ đau, gọi là “khổ thọ”; có loại cảm giác trung tính, không khó chịu cũng không dễ chịu, gọi là “xả thọ”.
8. Ái: “Ái” hay “ái dục” là sự ham muốn, khao khát, luyến ái. Do có cảm giác mà sinh ra ái. Đối trước dục vọng trần cảnh (ngũ dục), con người sinh tâm luyến ái. Nếu nói cho chính xác hơn, “ái” chính là sự luyến ái đối với sự sống. Vì vậy, cái gì làm cho ta vui thích thì ta khao khát, muốn có cho bằng được; còn cái gì làm cho ta buồn khổ thì ta chỉ muốn tránh xa, hoặc ruồng bỏ, hay hủy diệt nó đi; đó là động cơ chính yếu thúc đẩy thân, miệng, ý tạo nghiệp.
9. Thủ: Khi đã luyến ái thì cố bám giữ lấy đối tượng; hay nói rõ hơn, vì luyến ái sự sống cho nên phải bám giữ lấy sự sống – và từ đó mà phát sinh ra những tư tưởng sai lầm là có “TÔI và những gì THUỘC VỀ TÔI”. Mục đích của mọi hành động trong ba lĩnh vực ý, thân và miệng, dù là thiện hay bất thiện, cũng đều để bảo vệ và củng cố cho cái “TÔI và những gì THUỘC VỀ TÔI” ấy.
10. Hữu: Vì đam mê và cố bám giữ lấy đối tượng cho nên phải vướng mắc vào nghiệp báo do sự sống của chính mình tạo ra. “Hữu” nghĩa là có – có những nghiệp nhân (thiện hay bất thiện) đã tạo ra ở kiếp này, và dĩ nhiên, có những nghiệp quả (vui sướng hay khổ đau, cũng tức là những cảnh giới của các loài chúng sinh khác nhau) sẽ thọ nhận ở kiếp sau.
11. Sinh: Nghiệp đã tạo (hữu) ấy lại được huân tập vào chủng tử thức (a-lại-da), và chính là dẫn lực đưa tới việc ra đời của sinh mạng mới.
12. Lão tử: Khi đã có sinh ra thì tất nhiên lại phải có già và chết.
Mười hai nhân duyên, như vừa thấy, đã trình bày một chuỗi nhân quả kéo dài suốt qua ba đời: quá khứ, hiện tại, và vị lai. Do vô minh và hành nghiệp ở từ quá khứ cho nên đã có đời sống hiện tại. Cuộc sống hiện tại có thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, và những nhân duyên này cũng chính lại là vô minh, làm cho ái, thủ lại tiếp tục tạo nghiệp – tức là hữu. Chính sức mạnh của hữu (nghiệp) đã tạo ra trong cuộc sống hiện tại ấy sẽ là nguyên nhân đưa đến một đời sống mới (sinh và lão tử) ở đời vị lai. Cứ thế, quá khứ làm nguyên nhân cho hiện tại, hiện tại làm nguyên nhân cho vị lai; hiện tại lại trở thành quá khứ, vị lai lại trở thành hiện tại để rồi lại đưa đến một vị lai khác..., vòng luân hồi tiếp diễn không ngừng.
21) Tám thứ khổ (bát khổ): Chúng sinh luân hồi trong sáu đường, luôn luôn phải nhận chịu vô vàn đau khổ. Đau khổ là nội dung của sự thật đầu tiên (khổ đế) trong “bốn sự thật” (tứ đế), là bài pháp đầu tiên đức Phật nói tại vườn Nai để hóa độ cho nhóm 5 vị đạo sĩ do sa-môn Kiều Trần Như lãnh đạo. Nhìn thật sát cuộc sống của con người trước mắt, không việc gì là không phải khổ đau. Những nỗi đau khổ mà nhân loại phải nhận chịu, thật nhiều vô lượng, nhưng có thể thâu tóm trong 8 loại tổng quát như sau:
1. Sinh khổ: Sinh ra đời là một nỗi khổ lớn; hãy quan sát các sự trạng sau đây:
a) Khi nghiệp thức gá vào thai mẹ, thì bào thai chỉ là một nơi chật hẹp, bất tịnh; lại phải sống nhờ vào hơi thở ra vào của mẹ, không được tự tại.
b) Bào thai trải qua 10 tháng, nhờ hơi nóng và thức ăn trong bụng mẹ nuôi dưỡng mà thân thể dần dần thành hình, nhưng phải nằm chen giữa bao nhiêu bộ phận khác ở trong bụng mẹ, bị chèn ép bốn bề, chật hẹp như bị tù ngục.
c) Thai nhi đến ngày chào đời, ra khỏi bụng mẹ bằng một con đường nhỏ hẹp, thật là đau đớn; rồi phải chạm xúc với không khí nóng lạnh khác lạ với lúc ở trong bụng mẹ, da thịt non nớt mà phải đụng chạm với khăn lau, áo quần, đau như bị dao cứa.
d) Ra đời gặp phải gia đình hoặc giàu sang, hoặc nghèo hèn; tướng mạo hoặc xinh đẹp, hoặc xấu xí; tâm tính hoặc thông minh, hoặc ngu đần v.v..., tất cả hầu như đều do từ đâu sắp đặt sẵn, bản thân không có chút tự do lựa chọn nào, cũng không tự chủ được chút nào; rồi trong đời sống, từ lúc bé thơ cho đến lúc trưởng thành và già chết là cả một khoảng dài tranh đấu cho sự sống còn, biết bao nhiêu vất vả, gian nan, nguy hiểm; những suy nghĩ, hơn thua, giành giựt, phiền muộn, lo âu, sợ sệt; những áp bức, hành hạ, lăng nhục, tù ngục, v.v... vô số nỗi khổ phải gánh chịu, không thể dùng ngôn từ mà nói cho hết được.
2. Lão khổ: Tuổi già mọi thứ đều suy yếu, cũng chịu nhiều nỗi khổ, như: nhan sắc mất hết vẻ xinh đẹp, sức lực yếu đuối, các căn đều không còn khỏe mạnh, đầu bạc, răng rụng, da nhăn nheo, mắt mờ, tai điếc, thường bị đau nhức, đi đứng không vững vàng, run rẩy, dễ bị bệnh hoạn, tinh thần suy kém ngờ nghệch, mất hết sức tinh anh nhạy bén, v.v...
3. Bệnh khổ: Bệnh tật cũng là nỗi khổ lớn, mà mọi người trai gái già trẻ, ai ai cũng thấy rõ. Bệnh tật không phải chỉ có ở thân, mà còn có cả ở tâm; thân bệnh, có những trường hợp vô cùng đau đớn, nhưng so ra, tâm bệnh còn trầm trọng hơn. Cần nhận biết rõ một điều quan trọng, dù là thân bệnh hay tâm bệnh, cũng đều do tham sân si mà gây ra.
4. Tử khổ: Cái khổ của sự chết cũng là điều hiển nhiên đối với người đời, ai cũng thấy rõ. Cái chết có thể do bệnh tật gây ra, do mạng số hết mà đến lúc phải chết, và cũng có thể do các tai nạn từ ngoại cảnh ập vào, như xe đụng, nước lụt, lửa cháy, động đất, hay mũi tên hòn đạn do ai đó bắn tới, v.v... rất nhiều ác duyên gây ra chết chóc. Người chết tự mình thân tâm đau đớn, khổ sở, mà còn làm cho thân nhân bè bạn cũng đau đớn khổ sở vì tiếc thương, vì cảm thấy bơ vơ mất mát. Nếu không phải là người biết tu hành, là người suốt đời gây nghiệp bất thiện, thì cái chết lại càng là một nỗi đau khổ lớn lao, vì cái chết ấy chính là dấu hiệu của sự làm mất thân người để sau đó bị đọa lạc vào các nẻo đường xấu ác, các cảnh giới khổ đau.
5. Ái biệt li khổ: Những người yêu thương (ái) nhau (như cha mẹ và con cháu, vợ chồng, thầy trò tâm đắc, bạn bè thân thiết, v.v...), từng sống chung với nhau, hoặc thường tới lui gần gũi, mà gặp hoàn cảnh trái ngang phải chia lìa xa cách (biệt li), đó là một nỗi khổ cũng xảy ra rất thông thường trong đời sống con người.
6. Oán tắng hội khổ: Những người thù oán (oán) nhau, không ưa (tắng) nhau mà cứ phải gặp (hội) hoặc ở chung với nhau, cũng là một cái khổ. Kẻ thân thuộc ở trong gia đình (như con cái chẳng hạn) mà cứ đua đòi theo chúng bạn xấu ác ở ngoài, rồi bòn rút tài sản, phá nát nhà cửa, gây bao phiền nhiễu cho gia đình, cũng thuộc về cái khổ này.
7. Cầu bất đắc khổ: Những điều mình ưa thích, mưu tìm cho có (cầu) mà không được thỏa mãn (bất đắc), đó cũng là một nỗi khổ. Người đời phần nhiều tham lam vô độ (nào danh vọng, địa vị, quyền lợi; nào ái tình, khoái lạc, tiền tài, v.v...), cái gì cũng muốn thu về cho mình; nhưng đâu phải cứ muốn gì là được nấy, bởi vậy mà khổ sở rất nhiều. Ngay cả những ước muốn chính đáng, như muốn được tu hành, làm các việc thiện chẳng hạn, mà không đủ duyên lành, không có thiện tri thức giúp đỡ, nên không thực hiện như ý muốn được, đó cũng là một nỗi khổ.
8. Ngũ ấm xí thạnh khổ: Tác dụng của sắc, thọ, tưởng, hành, thức (ngũ uẩn, hay ngũ ấm) nổi lên hừng hực (xí thạnh), che lấp (ấm) chân tính, khiến cho bỏ báo thân này lại phải thọ sinh báo thân khác. Lại nữa, cũng vì năm ấm tích tụ lại để làm thành cái báo thân này nên mới phải nhận chịu các nỗi khổ sinh, già, bệnh, chết, v.v... như vừa trình bày trên.
22) Ba nghiệp (tam nghiệp): “Nghiệp” là hành động. Tất cả mọi hành động do chúng ta tạo ra được gọi là nghiệp nhân, và kết quả do những hành động ấy đem lại được gọi là nghiệp quả, nghiệp báo, hay quả báo. Hành động được chia làm 3 loại:
1. Hành động của thân thể (thân nghiệp), gồm những động tác đi, đứng, nằm, ngồi và tất cả những động tác khác của tay, chân và thân thể (kể cả ăn uống, đụng chạm v.v...).
2. Hành động của miệng lưỡi (khẩu nghiệp), gồm mọi lời nói và âm thanh do miệng lưỡi phát ra.
3. Hành động của tâm ý (ý nghiệp), gồm mọi tư tưởng phát sinh từ tâm ý.
Tính chất của cả ba loại hành động này có khi là thiện (giúp ích), có khi là ác (phá hoại), và cũng có khi là vô kí (trung tính, không thiện cũng không ác).
23) Tám nguyên tắc hành động chân chánh (bát chánh đạo): Tám nguyên tắc hành động chân chánh là một trong những đạo lí căn bản nhất của đạo Phật. Về mặt nhân bản, đó là nền đạo đức học thực nghiệm của Phật giáo dùng để rèn luyện con người có được một nhân cách đẹp đẽ, cao thượng, trọn vẹn; về mặt tôn giáo thì đó là những con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau, đạt được an lạc, giải thoát khỏi ba cõi, giác ngộ viên mãn, và chứng nhập niết-bàn.
1. Thấy biết chân chánh (chánh kiến). Thấy biết chân chánh là thấy biết vạn pháp (trong đó gồm cả bản thân mình) đúng với tự tánh chân thật của chúng. Một cách cụ thể, khi ta nhìn cuộc sống đúng theo cái nhìn của đạo lí “Bốn Sự Thật” (tứ đế), đó là ta có “chánh kiến”; khi ta nhìn vạn sự vạn vật và ta thấy rõ những tính cách vô thường, vô ngã, duyên sinh của chúng, đó là “chánh kiến”. Vậy, chánh kiến là thấy biết đúng với SỰ THẬT, nghĩa là cái thấy không còn bị che phủ bởi vô minh, thành kiến, cố chấp, dục vọng; hay cũng có thể nói, chánh kiến chính là tuệ giác của bậc giác ngộ.
2. Suy nghĩ chân chánh (chánh tư duy). Suy nghĩ chân chánh là sự suy nghĩ đặt trên căn bản của sự thật, suy nghĩ đúng với bản tánh chân thật của vạn pháp. Ta vận dụng tâm trí để suy nghiệm về vạn pháp đúng với bản chất vô thường, vô ngã, duyên sinh của chúng, đó là “chánh tư duy”. Sự suy tư chân chánh sẽ đem lại cho ta những tư tưởng chân chánh. Người có tư duy chân chánh sẽ thấy rằng vô minh là đầu mối của mọi lỗi lầm và gây ra muôn vàn đau khổ, do đó, họ diệt trừ được tâm tham dục, luyến ái, ích kỉ, sân hận, oán thù, hung bạo, ganh ghét, và thay vào đó, họ sẽ phát triển những tư tưởng vị tha, thiện chí, ôn hòa, thương yêu, giúp đỡ...
3. Nói năng chân chánh (chánh ngữ). Nói năng chân chánh là nói năng đúng với sự thật. Không nói dối chỉ là một khía cạnh của “chánh ngữ”, chứ chưa phải là “chánh ngữ”. Nhiều khi chúng ta không nói dối nhưng vẫn sai với sự thật: chúng ta thấy biết làm sao thì nói làm vậy, nhưng vì cái thấy biết ấy đã bị sai lạc, lầm lẫn, cho nên chúng ta đã nói không đúng với sự thật. Vậy, lời nói chân chánh là lời nói không dối trá, không độc ác, không đâm thọc, không thêu dệt và siểm nịnh. Đó là những lời nói không xuất phát từ lòng tham dục, ích kỉ, hận thù, giận dữ, ngu dốt, ganh tị. Nói năng chân chánh là không nói những lời nhằm lừa gạt, nịnh hót, phỉ báng, chửi mắng, sỉ nhục, vu oan, chia rẽ, nghĩa là tất cả những lời nói với dã tâm hại người. Lời nói chân chánh là những lời nói từ ái, hòa nhã, dịu dàng, đoàn kết, xây dựng, đem lại an vui, lợi ích và tin tưởng cho mọi người. Chánh ngữ còn là những lời nói thận trọng, khéo léo nhằm hướng dẫn người đi vào nẻo thiện, giúp cho người khai mở trí tuệ, có được cái thấy sáng suốt, cái nhìn chính xác, nếp suy tưởng đúng đắn, phù hợp với thực tại. Vì vậy, nếu giảng pháp mà làm cho người ta hiểu sai Phật pháp, cố chấp lí thuyết, hoặc càng nghe càng thấy tối tăm, nghi ngờ, thì đó là tà ngữ, không phải là chánh ngữ.
4. Hành động chân chánh (chánh nghiệp). Có ba loại hành động (tam nghiệp): hành động của ý (ý nghiệp), hành động của miệng (khẩu nghiệp), và hành động của thân (thân nghiệp). Trong pháp số “Bát Chánh Đạo” này, yếu tố chánh nghiệp ở đây chỉ nhằm nói đến thân nghiệp mà thôi, còn ý nghiệp và khẩu nghiệp thì đã được bao hàm trong các yếu tố khác. Tất cả mọi hành động hằng ngày của thân thể đều là thân nghiệp – ngay cả sự ăn uống, tuy là hành động của miệng, nhưng vẫn thuộc thân nghiệp, còn khẩu nghiệp chỉ là sự nói năng mà thôi; vì vậy, khẩu nghiệp cũng được gọi là “ngữ nghiệp”. Hành động chân chánh là những hành động không phát xuất từ tham lam, vị kỉ, sân hận, oán thù, ngu si, ganh tị..., bởi vậy, chúng không gây ra đau khổ cho người khác, không phá hoại hạnh phúc của mọi người, không tàn hại người, vật và thiên nhiên. Hành động chân chánh là những hành động được soi sáng bởi chánh kiến, chánh tư duy..., được thúc đẩy bởi tình thương, sự hiểu biết, lòng cởi mở, tính vị tha, và chắc chắn sẽ đem lại an vui, hạnh phúc, thanh bình cho xã hội, đem lại tươi mát cho mọi loài và thiên nhiên. Đi đứng nằm ngồi theo chánh pháp, ăn uống ngủ nghỉ theo chánh pháp, làm việc theo chánh pháp, tu học theo chánh pháp..., đều là những hành động chân chánh.
5. Mưu sinh chân chánh (chánh mạng). Mọi người đều phải làm việc để nuôi sống cho chính mình và cho thân nhân mình, đó là điều hiển nhiên. Nhưng trong những công việc mưu sinh cũng có những việc tốt và những việc xấu. Người tu học không nên chọn những công việc có thể gây khổ đau cho người khác, làm tăng thêm sự bất công xã hội, hoặc tàn hại thiên nhiên và tiêu diệt sự sống của mọi loài. Người tu học khi có ý thức mưu sinh chân chánh thì sẽ tìm những nghề nghiệp lương thiện, trong sạch, tâm niệm không gian tham, không lươn lẹo, không lường gạt, không bóc lột sức người, không lạm dụng sức vật, không làm giàu trên mồ hôi nước mắt người khác. Những công việc như chế tạo và buôn bán các loại vũ khí, các loại hóa chất, độc dược để tàn phá đời sống con người, loài vật và thiên nhiên; môi giới hoặc buôn bán người (con gái, trẻ em) cho những tổ chức bất lương, vô nhân đạo; nuôi và buôn bán súc vật cho người ta ăn thịt; săn thú hoặc lưới cá bán cho người tiêu thụ; làm thịt súc vật trong lò sát sinh; chế tạo và buôn bán rượu cùng các chất ma túy v.v..., đều là những phương tiện mưu sinh bất chánh, có tính chất phá hoại và gây đau khổ, người tu học nên tránh xa.
6. Siêng năng chân chánh (chánh tinh tấn). “Siêng năng” ở đây không phải là dồn hết mọi nỗ lực để làm một công việc gì đó cho xong, rồi thôi; nhưng đó là sự cố gắng liên tục, bền bỉ, dẻo dai trong sự tu tập cho đến khi đạt được mục tiêu cuối cùng là đạo quả giải thoát. Nói rõ hơn, “chánh tinh tấn” là sự siêng năng liên tục trong việc kiểm soát thân miệng ý, làm cho tiêu trừ mọi tật xấu và phát triển các hạnh lành. Nếu sự siêng năng của mình là để nhằm phục vụ cho những ý đồ đen tối, làm tăng trưởng dục vọng, gây đau khổ cho mọi người, thì đó là “tà tinh tấn”; người tu học không nên “tinh tấn” theo cách đó.
7. Nhớ nghĩ chân chánh (chánh niệm). Khi ta nhớ đến điều gì tức là ta đem điều ấy đặt trên ý thức ta ở giây phút hiện tại. Vậy “niệm” hay “quán niệm” là sống với giờ phút hiện tại. Khi mình đang làm việc gì thì mình để hết tâm ý lên trên việc đó, khi nghe điều gì thì để hết tâm ý vào điều đang nghe, đang nói chuyện gì thì để hết tâm ý vào chuyện đang nói, đang suy nghĩ vấn đề gì thì để hết tâm ý vào vấn đề đang suy nghĩ, đó là sống có chánh niệm. Có chánh niệm thì cũng có thất niệm. Khi ta nói mà không biết đang nói gì, khi làm mà không biết đang làm gì, khi suy nghĩ mà không biết đang suy nghĩ gì, tức là ta không sống trong chánh niệm mà là đang sống trong lãng quên, trong thất niệm; mà lãng quên, thất niệm cũng đồng nghĩa với mê muội, vô minh, vô ý thức. Người tu học nên cố gắng, đừng để cho nếp sống thất niệm ấy xâm chiếm đời sống của mình. Mặt khác, chánh niệm cũng có nghĩa là những điều nhớ nghĩ chánh đáng, và trái lại thì gọi là tà niệm. Nếu những điều ta nhớ nghĩ đến mà làm cho thân tâm ta an lạc, khuyến khích và giúp đỡ ta tiến bộ trên đường tu tập đạo giải thoát, thì đó là những nhớ nghĩ chánh đáng (chánh niệm); ngược lại, những điều hễ nhớ nghĩ đến là ta thấy bất an, buồn phiền, oán hận, chán nản, hoặc ham muốn, thèm khát, say mê điên cuồng, mê muội tâm trí..., thì đó là những nhớ nghĩ bất chánh, tội lỗi (tà niệm).
8. Thiền định chân chánh (chánh định). Hành “thiền” để đạt được tâm “định” thì gọi là “thiền định”. “Định” là giữ tâm ý an trụ vào một điểm hay một đề mục quán chiếu, và “thiền” chính là phương pháp thực tập để giữ cho tâm ý được an trụ. Khi tâm ý đã được tập trung thì trí tuệ phát sinh. Do trí tuệ đó mà hành giả thấy rõ được chân tướng của thực tại vạn hữu (chánh kiến), và giải thoát được những sợi dây ràng buộc của vô minh, của thành kiến cố chấp, của tham dục ích kỉ, của ngã chấp và pháp chấp. Đó là chánh định. Sở dĩ “chánh định” đã được kể là một yếu tố quan trọng trong “Bát Chánh Đạo” là vì thời Phật tại thế đã có rất nhiều thứ tà định của ngoại đạo. Ngoại đạo tu tập những loại định này cốt để trốn tránh đời sống khổ đau. Có những vị như A La Lam hay Uất Đầu Lam Phất chẳng hạn, có định lực lớn, chứng đắc các cõi thiền rất cao, nhưng cũng chỉ là để trốn tránh cái thực tế khổ đau của kiếp người. Chính đức Phật trước khi thành đạo cũng đã từng theo học với quí vị ấy về những loại định này, và cũng đã chứng đắc như họ, nhưng Ngài thấy điều đó vẫn là vô ích, chưa phải là mục đích tìm cầu của Ngài. Mục đích của Ngài là giải thoát khổ đau, giải thoát sinh tử. Giải thoát khổ đau và trốn tránh khổ đau là hai hành động hoàn toàn khác nhau. Bởi vậy, tà định là để trốn tránh, còn chánh định mới là giải thoát.
Tám yếu tố trên đây, nếu phân tích theo “Ba Môn Học Giải Thoát” (tam vô lậu học), thì chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng thuộc về GIỚI; chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định thuộc về ĐỊNH; chánh tư duy và chánh kiến thuộc về TUỆ. Nếu phân tích theo “Ba Nghiệp” thì chánh nghiệp và chánh mạng thuộc về THÂN NGHIỆP; chánh ngữ thuộc về KHẨU NGHIỆP; chánh kiến, chánh tư duy, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định thuộc về Ý NGHIỆP. Bất cứ một trong tám yếu tố nào trên đây cũng bao gồm hai phần NHÂN và QUẢ của chính nó – nghĩa là, tự thân nó làm nhân cho nó, và cũng tự thân nó là quả của nó. Muốn đạt được chánh kiến (quả) thì ta phải thực tập chánh kiến (nhân); hay nói cách khác, nếu ta tu tập chánh kiến (nhân) thì nhất định ta sẽ có được chánh kiến (quả). Cả bảy yếu tố kia cũng vậy. Lại nữa, trong tám yếu tố trên, bất cứ một yếu tố nào cũng có thể là NHÂN, và cũng đồng thời là QUẢ của bảy yếu tố kia. Do ta có chánh kiến cho nên ta sẽ đạt được chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh định v.v...; hay có thể nói ngược lại, sở dĩ ta có chánh kiến là vì ta đã đạt được chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh định v.v... Bởi vậy, có thể nói, bất cứ một yếu tố nào trên đây cũng bao gồm cả bảy yếu tố kia của bát chánh đạo. Tất cả tám yếu tố đó đều tương quan tương liên và trợ giúp, nâng đỡ lẫn nhau để đưa hành giả đến thành quả giác ngộ.
24) Ba thứ phiền não độc hại (tam độc): Đây là ba loại phiền não gốc rễ luôn luôn đeo dính và thúc đẩy chúng sinh tạo ra vô vàn tội lỗi, gây đau khổ triền miên cho chính mình, cho xã hội, và cho cả mọi loài. Bởi vậy, người tu học xem chúng như là những nọc độc nguy hiểm, chuyên tàn phá căn thân huệ mạng mình, để lúc nào cũng tỉnh giác, ngăn chận, không để bị chúng lôi cuốn, sai sử. Ba loại nọc độc đó là:
1. Tham: tâm tham muốn mọi thứ dục vọng.
2. Sân: tâm sân hận đối với những hoàn cảnh không vừa ý.
3. Si: tâm ngu muội do bị vô minh che phủ, không thấy rõ được đâu là chánh, đâu là tà, điều gì là tốt, điều gì là xấu, thế nào là xây dựng, thế nào là phá hoại v.v...
Ba loại phiền não trên, không những là ba loại nọc độc, mà chúng còn làm nền tảng để sinh khởi mọi pháp bất thiện, cho nên chúng cũng được gọi là “ba căn bất thiện” (tam bất thiện căn).
25) Đề Bà Đạt Đa (Devadatta). Thân vương Bạch Phạn (bào đệ của vua Tịnh Phạn) có hai con trai: trưởng là Đề Bà Đạt Đa và thứ là A Nan Đà. Như vậy, Đề Bà Đạt Đa (gọi tắt là Đề Bà) là em con chú của Phật. Hồi còn ở hoàng cung, vương tử Đề Bà chơi rất thân với thái tử Tất Đạt Đa. Đề Bà là người thông minh, khỏe mạnh nhất trong đám vương tử, chỉ thua có thái tử mà thôi; bởi vậy, dù chơi rất thân, nhưng Đề Bà cũng thường hay ganh tị, giành giật với thái tử. Tính tình của hai người thật trái ngược nhau: trong khi thái tử điềm đạm, khiêm cung, nhân từ, thì Đề Bà bồng bột, tự phụ, độc ác. Sau khi thái tử Tất Đạt Đa thành Phật, Đề Bà cùng với các vương tử khác (kể cả em ruột là A Nan Đà) xin theo Phật xuất gia tu học. Trong mười hai năm đầu, Đề Bà đã tu học rất chuyên cần, nghiêm tịnh, gương mẫu; nhưng sau đó thì bị danh lợi trần thế làm cho si ám, ganh tị với địa vị của đức Phật, một mặt kết thân và bày mưu cho thái tử A Xà Thế giết vua cha là Tần Bà Sa La để soán ngôi, một mặt toa rập với A Xà Thế lập mưu chia rẽ giáo đoàn và hại Phật để tự mình lãnh đạo giáo đoàn. Ông đã mấy lần ám hại đức Phật và trở thành một phản đồ nguy hiểm của đức Phật. Ông đã phạm tội “ngũ nghịch”, nên phải đọa địa ngục. Kinh điển đại thừa nói rằng, tuy ông ở trong địa ngục mà sự thật ông vẫn an lạc như sống ở thiên cung; bởi vì, ông đã thực hiện hạnh Bồ-tát, thị hiện trong thân phận kẻ phản nghịch để giúp đức Thích Tôn hoàn thành trọn vẹn đạo quả giải thoát.
26) Bốn phép như ý (tứ như ý túc): “Như ý túc” là thành tựu như ý mong muốn. Đây là bốn phép tu tập thiền định để đạt được chánh định cùng các khả năng mầu nhiệm (thần thông), là những trợ lực giúp hành giả hoàn thành đạo quả giác ngộ.
1. Lòng mong muốn đạt được đạo quả giác ngộ (Dục như ý túc).
2. Tâm chuyên chú vào đạo quả giác ngộ (Niệm, Tâm, hay Định như ý túc).
3. Chí kiên trì tiến tới đạo quả giác ngộ (Tinh tấn như ý túc).
4. Tham cứu, suy tư, quán chiếu về thực tại để đạt được đạo quả giác ngộ (Tư duy, hay Quán như ý túc).
27) Đại địa chấn động sáu cách (lục chủng chấn động): Khi có các sự việc vĩ đại xảy ra, như đức Bồ-tát từ cung trời Đâu-suất giáng trần gá vào thai mẹ, đức Bồ-tát ra khỏi thai mẹ xuất hiện ở thế gian, đức Bồ-tát vừa thành bậc Tối Chánh Giác v.v..., thì đại địa chấn động.
Đại địa chấn động có 6 tướng trạng. Kinh Đại Phẩm Bát Nhã đã y theo phương hướng chấn động mà nêu ra 6 tướng như sau: hướng Đông nổi lên, hướng Tây chìm xuống; hướng Tây nổi lên, hướng Đông chìm xuống; hướng Nam nổi lên, hướng Bắc chìm xuống; hướng Bắc nổi lên, hướng Nam chìm xuống; ngoài biên nổi lên, ở giữa chìm xuống; ở giữa nổi lên, ngoài biên chìm xuống.
Trong khi đó, kinh Tân Hoa Nghiêm y theo cách thức chấn động mà nêu 6 tướng như sau: chuyển động; nổi cao dần; vọt cao lên; phát ra tiếng động nhẹ; gào thét dữ dội; ầm ầm vang xa. Ba tướng đầu là hình thái của chấn động; ba tướng sau là âm thanh của chấn động.