Ung Chính lên ngôi lấy hiệu "Thuận Trị Hoàng đế, 順治皇帝" từ nhỏ đã thích đọc kinh sách Phật giáo, quảng giao tăng chúng, tinh thông Phật lý. Vua học thiền với Quốc sư Chương Gia, được hướng dẫn Thiền tọa liên tục trong hai ngày, đương thời Quốc sư Chương Gia (章嘉國師) khen ngợi vua có Chủng Tính Tối Thượng Thừa, khuyến khích bế quan nhập Thất Thiền tu, 14 ngày đêm miên mật tham cứu công án thoại đầu...
Người đời sau công nhận vua là người duy nhất trong tất cả các hoàng đế Trung Quốc thực sự tham thiền chứng ngộ, đắc đại tự tại.
Thanh triều Ung Chính Hoàng đế, vị cư sĩ Bồ tát Kiến tính ngộ đạo, được sự ấn chứng truyền Tâm Pháp ấn từ Quốc sư Chương Gia.
Khang Hy năm bốn mươi bốn (1705), Quốc sư Chương Gia được ban Kim Ấn và sắc phong “Quán Đỉnh Phổ Tuệ Quảng Từ Đại Quốc Sư-灌頂普慧廣慈大國師”.
Ung-Chính-Hoàng-đế
Thuận Trị Hoàng đế tham vấn Thiền đạo Tâm yếu với Quốc sư Ngọc Lâm
Thanh Thế Tông (清世宗), húy là Dận Chân (胤禛), Hoàng đế hiệu Ung Chính (雍正), Pháp hiệu theo Phật giáo có hai danh xưng tự hào Cư sĩ Viên Minh, Cư sĩ Hòa Phá Trần, sinh vào ngày 13 tháng 12 năm 1678, là con trai thứ 4 của Thanh Thánh Tổ Khang Hy hoàng đế, và là cha của Hoàng đế Càn Long, mẹ là Hiếu Cung Nhân hoàng hậu Ô Nhã thị, thuộc Tương Hoàng kỳ Mãn Châu, vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 1722 đến 1735.
Sau khi Ung Chính đăng cơ kế vị ngôi cửu ngũ, nhân những lúc rảnh việc triều chính, vua tự mình thăng tòa giảng kinh thuyết pháp, lấy hiệu là Viên Minh cư sĩ. Gần như Vương thất Tông thân, xa như Hòa thượng và Đạo sĩ, mọi người nườm nượp đến học Phật pháp với Vua. Ung Chính Hoàng đế đọc hết các kinh sách Thiền tông như “Chỉ nguyệt lục-指月錄”, “Chính pháp nhãn tạng-正法眼藏”, “Thiền tông chánh mạch-禪宗正脈”, “Giáo ngoại biệt truyền-教外別傳”… và vào năm Ung Chính thứ 11 (1733) đã cho phát hành một tuyển tập ngữ lục Thiền tông có giá trị nhất thời bấy giờ là “Ung Chính ngự tuyển ngữ lục-雍正禦選語錄” và các ngữ lục của Thiền tông.
Ung Chính Hoàng đế rất nguyên tắc trong tuyển biên, bất trọng hư danh, chẳng màng sự chê khen, chỉ cần đạt đến Lý địa chân thật; chẳng cần trau hoa văn chuốt mỹ từ, chỉ xem trọng tính địa lưu xuất. Ung Chính Hoàng đế tự thân tuyển biên 12 vị, chủ yếu là Thiền sư, trọng yếu là ngữ lục và hơn 500 vị Thiền tăng, Thiền ngữ cư sĩ, Ung Chính Hoàng đế tự trứ thuật Thiền ngữ. Đặc biệt, mỗi quyển Ngữ lục, Ung Chính Hoàng đế tự Ngự chế tự ngôn, tha thiết rằng; Xiển minh Tâm yếu, hướng dẫn người học.
Vua Ung Chính còn là người biết trọng dụng cao Tăng vào việc quốc gia đại sự. Vua từng triệu thỉnh Thiền sư Văn Giác vào cung bàn luận những việc cơ mật nhất của quốc gia. Năm Ung Chính thứ 11, Thiền sư Văn Giác (文覺禪師) đi hành hương Giang Nam, trên đường xuống phương Nam, đội nghi trượng của Ngài hùng dũng, oai nghiêm trông giống như của một vị Vương công, Đại thần. Tất cả quan viên ở các nơi Ngài đi qua đều phải đến đảnh lễ Ngài. Có thể thấy, Thiền sư Văn Giác có thân phận đặc biệt và địa vị quan trọng như thế nào.
Ung Chính rất chú ý đến việc hộ trì chùa chiền. Năm Ung Chính thứ nhất, tỉnh Thanh Hải giặc dã nổi lên làm loạn, đại tướng quân Niên Canh Nghiêu đến dẹp loạn, lệnh cho các Lạt Ma ở chùa Đan Cát Nhĩ dọn đi, dành 1500 gian phòng trong chùa làm chỗ cho quan binh lưu trú, khiến các vị Lạt Ma vô cùng bất mãn. Sau khi Ung Chính biết, vua lập tức ra chiếu chỉ yêu cầu Niên Canh Nghiêu rút hết quân ra khỏi chùa. Rồi đến chuyện quan huyện Đường Sơn, tỉnh Trực Lệ (nay là tỉnh Hà Bắc) phản đối Phật sự, hạ lệnh đuổi tăng ni đi, cưỡng đoạt tăng xá, sửa thành nhà dân. Ung Chính biết tin, xuống chiếu yêu cầu lập tức bắt giữ tên quan huyện này hỏi tội, sau nhờ Thị lang Lưu Bảo ra mặt xin cho nên hắn mới được xử nhẹ tay.
Những năm cuối đời, vua Ung Chính đã cho tu sửa rất nhiều ngôi Già lam cổ tự nổi tiếng như: Sùng Ân Tự (崇恩寺) ở Kinh Khê, Giang Nam, Đạo tràng Quốc sư Ngọc Lâm (玉琳國師) truyền pháp, Ung Chính thập nhất niên hạ chiếu trùng tu. Báo Ân Tự (報恩寺) ở Thiệu Hưng, Triết Giang, đạo tràng Quốc sư Ngọc Lâm khai đường, phụng chỉ duy tu. Phổ Tế Tự (普濟寺) và Pháp Vũ Tự (法雨寺) ở núi Phổ Đà, Triết Giang, Thánh địa Quan Âm Đại sĩ.
Ung Chính ngự tuyển ngữ lục
Về mặt Phật học, Ung Chính cũng đã viết và soạn rất nhiều sách như: “Giáo thừa pháp số-教乘法數”, “Viên Minh ngữ lục-園明語錄“, “Tập vân bách vấn-集雲百問”, “Luyện ma biện dị lục-揀魔辨異錄“, “Duyệt tâm tập-悅心集“, “Phá Trần Cư Sỹ ngữ lục-破塵居士語錄“, “Ngự tuyển ngữ lực-禦選語錄”, “Phiên dịch danh nghĩa tuyển-翻譯名義選”, “Thiền sư tâm phú tuyển chú-禪師心賦選注”, “Đại Giác thiền sư lục-大覺禪師錄”, “Vạn thiện Đồng quy tập-萬善同歸集”, “Đương kim pháp hội-當今法會”, “Kinh hải nhất trích-經海一滴, “Tông kính đại cương-宗鏡大綱”và các công trình Phật giáo khác.
Các sách Phật học này cho thấy vua Ung Chính không chỉ tin Phật sùng Phật mà còn nghiên cứu uyên thâm về Kinh văn Phật gia. Sau khi phát hành, sách Phật học của vua Ung Chính đã có ảnh hưởng lớn đến Phật giáo Trung Quốc. Vua Ung Chính vừa làm tròn việc nước, vừa cho ra đời rất nhiều trước tác Phật học, trên thế gian này, thực sự khó tìm được vị Hoàng đế thứ hai nào như vậy.
Thích Vân Phong biên dịch
(Nguồn: Zhibeifw)