Nhân duyên Bồ đề quyến thuộc Phật pháp của người Nhật nhập cư vào nước Mỹ hòa cùng ánh sáng từ bi, trí tuệ đạo Phật bắt đầu vào giữa thế kỷ 19, khi công nhân Trung Quốc và những người nhập cư đến bờ Tây quần đảo Hawaii, tiểu bang có tỷ lệ cư dân gốc Á cao nhất tại Hoa Kỳ. Cả hai nhóm dân tộc này đã sớm xây dựng cơ sở tự viện Phật giáo ở Mỹ; đến năm 1875, họ đã có 8 cơ sở tôn giáo tại khu phố Tàu ở Quận San Francisco, một trung tâm văn hóa, thương mại và tài chính ở tiểu bang California của Hoa Kỳ.
Họ đến trong cơn sốt vàng, vùng đất mà họ gọi là “Núi Vàng” (Gold Mountain). Nhiều người đã trở thành thợ mỏ và những người khác làm việc trong trang trại, làm ngư dân, thợ mộc và công nhân xây dựng trên đường sắt Trung tâm Thái Bình Dương.
Những người nhập cư từ Trung Quốc đã xây dựng cơ sở tự viện Phật giáo, được hỗ trợ bởi nhiều “Hiệp hội” khác nhau, đã thu hút nhiều thành viên từ các quận cụ thể từ Trung Quốc. Phật giáo đồ Trung Quốc đã mang theo những hình ảnh chư Phật và Bồ tát, với những biểu tượng Bi, Trí, Dũng, cũng như thế giới tôn giáo đa dạng phong phú như các tôn giáo ảnh hưởng lớn tại Trung Quốc, Phật giáo, Đạo giáo và Khổng giáo.
Đến năm 1875, đã có đến tám cơ sở tôn giáo ở Khu phố Tàu, San Francisco, hầu hết nằm trên các tầng cao nhất của Văn phòng Hiệp hội Trung Quốc. Ngôi Thiên Hậu Cổ Miếu và Cương Châu Cổ Miếu là một trong những cơ sở tôn giáo của người Trung Quốc lâu đời nhất tại địa phương này.
Những cơ sở tôn giáo trong các làng chài và các trại khai thác khác thường là những tạm thời như nhà kho dựng tạm. Cơ sở tôn giáo lịch sử được bảo tồn ở Weaverville, California là một ví dụ về thời kỳ xây dựng cơ sở tôn giáo từ khi mới nhập cư.
Vào cuối thế kỷ 20, hàng trăm ngôi Tự viện Phật giáo và các ngôi đền thờ, miếu mạo tín ngưỡng tôn giáo Trung Quốc có thể được tìm thấy dọc theo bờ biển phía Tây và dãy núi Rocky (Rặng Thạch Sơn) miền Tây Bắc Hoa kỳ.
Trong lãnh thổ Montana, một tiểu bang nằm ở miền tây bắc Hoa Kỳ có những nghi lễ Vu Lan thường niên của cộng đồng người Hoa tưởng niệm, tri ân những người đã khuất sớm nhất vào đầu năm 1869. Có những cộng đồng Phật giáo ở Helena và Butte, Hoa Kỳ.
Năm 1860, một phần mười dân số California là người Hoa, và vào năm 1870, một phần mười dân số của lãnh thổ Montana là người Trung Quốc.
Vào những năm 1880, người Nhật Bản bắt đầu đến Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Nhập cư Nhật Bản được kiểm soát nhiều hơn so với Trung Quốc. Người nhập cư thường được kiểm tra và nhận được sự hỗ trợ từ Chính phủ Nhật Bản. Những người nhập cư Nhật Bản, đặc biệt là những tôn phái Tịnh độ Chân tông Phật giáo Nhật Bản cũng thành lập các tổ chức tôn giáo và cơ sở tự viện Phật giáo của cộng đồng họ.
Năm 1898, Hiệp hội thanh niên Phật tử và Đoàn Truyền giáo đạo Phật Bắc Mỹ được thành lập.
Vào năm 1912, hai mươi cơ sở tự viện Phật giáo, do chư tôn tịnh đức tăng già được biệt phái từ Nhật Bản lãnh đạo. Những “Sứ giả Như Lai” truyền đăng tục diệm chính pháp Phật đà, đã giúp nuôi dưỡng mối quan hệ giữa thế hệ thứ nhất và thứ hai của cộng đồng người Mỹ gốc Nhật. Họ đã hưởng chế độ hỗ trợ mà người nhập cư Trung Quốc thì không có.
Khái lược quá trình Phật giáo hình thành, phát triển ở miền Tây Hoa Kỳ là vậy. Đến nay, Phật giáo tại Hoa Kỳ không chỉ nơi miền Tây, mà phát triển khắp đất nước, phù hợp nhu cầu khát ngưỡng của đông đảo tín chúng hướng về tôn giáo của hòa bình, bác ái, từ bi. Đó, chính giáo Phật giáo vậy!
Thích Vân Phong biên dịch
(Nguồn: Harvard University)