Bài này sẽ viết về một chủ đề: cách tu nào đơn giản nhất cho những người có tâm hồn rất mực đơn sơ. Thí dụ, người chưa biết chữ, hoặc những người mới học buổi sáng và quên liền vào buổi chiều, hoặc những người đã từng học thiên kinh vạn quyển nhưng bây giờ bắt đầu lãng trí, thậm chí không còn nhớ tới nửa bài Tâm Kinh. Câu hỏi là, pháp giải thoát có thể truyền dạy như thế nào cho những người không hiểu, hoặc không nhớ tận tường những khái niệm như định, như huệ, như bát nhã, và vân vân.
Vâng, đơn sơ. Độc giả đang đọc những dòng chữ từ một người đang tự rơi vào cõi đơn sơ, đã vài năm vào lứa tuổi xưa nay hiếm, tự thấy sức khỏe suy trầm và trí nhớ mệt mỏi, vừa mới đậu xe phía đông mà cứ nhớ là phải tìm xe ở phía tây. Người viết dùng chữ “đơn sơ” là để tránh những chữ bất nhã, thí dụ các chữ như “mau quên” hay là “khờ khạo” hay là “kém trí” và vân vân. Thêm nữa, có rất nhiều người không còn đủ sức khỏe để ngồi thiền, hay phải quá bận rộn mưu sinh tới mức không thể tụng kinh hay ngồi thiền. Do vậy, cần tìm những pháp nào cực kỳ đơn giản, đơn sơ. Khi nói tới tám mươi bốn ngàn cửa pháp, không lẽ không có cửa cho người đơn sơ.
Khi nói tới pháp cho người đơn sơ, người viết nghĩ ngay tới một trường hợp trong Pháp Cú. Trong Kinh Pháp Cú Tích Truyện có kể về trường hợp bài Kệ 25, về một nhà sư rất khờ, rất kém trí nhớ, tên là Culapanthaka, người có tiền kiếp từng chế nhạo một nhà sư là đần độn, nên Culapanthaka sinh ra là một kẻ đần độn trong kiếp hiện tại. Thậm chí vào tăng đoàn của Đức Phật Thích Ca rồi, học trong 4 tháng mà không thuộc nổi một bài kệ. Một hôm, Đức Phật đưa một mảnh vải sạch cho Culapanthaka và bảo vị sư chậm trí này ngồi đó, dùng mảnh vải lau bụi, lặp lại lặp lại chữ "Rajoharanam," có nghĩa là "tẩy sạch bất tịnh." Rất nhanh, tấm vải trở nên dơ bẩn. Nhìn thấy sự thay đổi của tấm vải, Culapanthaka nhận ra bản chất vô thường của tất cả các pháp hữu vi. Như thế, pháp này là quán vô thường.
Tuyệt vời của pháp này là nhìn thấy sự chuyển biến vô thường, tự nhiên tâm không còn chấp giữ cái gì là “ta” và “của ta” nữa, tức là, cũng chứng ngộ vô ngã. Khi nhìn các pháp chỉ như đám mây tụ và tán, đến rồi đi, khi thấy tập khởi và tan rã của các pháp trong thân tâm mình và người, tất nhiên sẽ không dính vào chút nào của tham sân si mạn nghi. Và cũng sẽ không dính vào bất kỳ cái gì của hôm qua, hôm nay (và dĩ nhiên là cả ngày mai) bởi vì tất cả đều bị trận gió vô thường thổi sạch hết.
Cái hay của pháp quán sát vô thường là không dính vào “thường” (thuyết vĩnh cửu) hay “đoạn” (thuyết hư vô). Bởi vì, nói ẩn dụ theo Thiền Tông Trung Hoa, người quán vô thường sẽ thấy tâm mình y hệt như tánh sáng chiếu của gương sáng, nơi đó hình ảnh hiện ra rồi biến mất, liên tục tới rồi đi, liên tục vô thường như thế, nhưng tánh sáng chiếu của gương vẫn còn đó, bất kể ảnh có tới hay ảnh đã đi. Nói là tánh sáng chiếu, nhưng cũng là tánh rỗng không của gương tâm.
Nếu chỉ nói là hãy quán sát vô thường kiểu đơn giản như thế, sẽ có một số người hỏi rằng Kinh nào dạy như thế. Nên thấy rằng rất nhiều Kinh dạy quán sát vô thường, đa số đều rất phức tạp. Càng đọc nhiều, càng rối trí, càng khó nhớ. Trong đó, có lẽ đơn giản nhất là Kinh SN 22.12, bản dịch của Thầy Minh Châu trọn bản kinh là:
“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Sāvatthi… Tại đấy… —Này các Tỷ-kheo, sắc là vô thường…, thọ là vô thường…, tưởng là vô thường … các hành là vô thường…, thức là vô thường. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc, yếm ly đối với thọ, yếm ly đối với tưởng, yếm ly đối với các hành, yếm ly đối với thức … Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên: “Ta đã được giải thoát”. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.” (1)
Một pháp cho người đơn sơ tương tự là “niệm vô niệm.” Trong bản văn Phổ khuyến toạ thiền nghi (Fukanzazengi) của Thiền sư Đạo Nguyên (Dogen) dài khoảng 2 hay 3 trang giấy, nói về pháp tu Thiền Tào Động, nhưng tóm tắt có thể chỉ là vài chữ. Ngài Đạo Nguyên viết: "Hãy niệm vô niệm. Làm sao ngươi niệm vô niệm? Không nghĩ ngợi tư lường. Điều này tự thân là nghệ thuật cốt tuỷ của tọa thiền." (Bản Anh dịch của San Francisco Zen Center: Think not-thinking. How do you think not-thinking? Non-thinking. This in itself is the essential art of zazen.)
Lời dạy đó cũng là lời Lục Tổ Huệ Năng dạy Thượng Tọa Minh trong Kinh Pháp Bảo Đàn. Cũng là lời dạy trong rất nhiều Kinh Nikaya và A Hàm. Vô niệm không có nghĩa là “mất ý thức” hay bị “trôi vào thất niệm” – nhưng vô niệm trong Thiền Tông là sự tỉnh thức thường trực và thấy rằng ý thức của mình trong trụ vào đâu hết. Kinh Nikaya gọi là thức như tia sáng mặt trời rọi vào nhà và không nghiêng về các bức tường đông, tây, nam, bắc. Đức Phật nói trong Kinh SN 12.64, về ý nghĩa vô niệm, nghĩa là “không có thức an trú”, theo bản dịch Thầy Minh Châu, rằng:
"…có bốn loại đồ ăn đưa đến sự tồn tại hay sự chấp thủ tái sanh của các loài hữu tình hay các loài chúng sanh. Thế nào là bốn? Ðoàn thực thô hoặc tế, xúc thực là thứ hai, tư niệm thực là thứ ba, thức thực là thứ tư.
...[...] này các Tỷ-kheo, nếu đối với đoàn thực không có tham, không có hỷ, không có ái… Này các Tỷ-kheo, nếu đối với xúc thực… Này các Tỷ-kheo, nếu đối với tư niệm thực… Này các Tỷ-kheo, nếu đối với thức thực, không có tham, không có hỷ, không có ái, thời không có thức an trú. Chỗ nào không có thức an trú, chỗ ấy không có danh sắc sanh. Chỗ nào không có danh sắc sanh, chỗ ấy không có các hành tăng trưởng. Chỗ nào không có các hành tăng trưởng, chỗ ấy không có hữu tái sanh trong tương lai. Chỗ nào không có hữu tái sanh trong tương lai, chỗ ấy không có sanh, già chết trong tương lai. Chỗ nào không có sanh, già chết trong tương lai, Ta nói rằng chỗ ấy không có sầu, không có khổ, không có não." (2)
Không có thức an trú (như Kinh SN 12.64 vừa dẫn), hay vô niệm (như ngài Huệ Năng và Đạo Nguyên dạy) là phiên bản khác của Kinh Bahiya Sutta (Ud 1.10) trong đó Đức Phật dạy ngài Bahiya là “Hãy để cái được thấy chỉ là cái được thấy, hãy để cái được nghe chỉ là cái được nghe… thì là giải thoát.” Đó chính là vô niệm, không nghĩ thiện và cũng không nghĩ ác, không ưa và cũng không ghét. Trong Thiền Việt Nam được Thầy Thích Phước Hậu ghi trong một bài thơ rằng Thầy đã quên hết ngàn vạn kinh điển, và rồi “Chỉ nhớ trên đầu một chữ Như.” Hay là, tâm của bạn sẽ không nắm giữ bất kỳ một cái gì của cõi này. Thế là đủ.
Vô niệm trong ý nghĩa đoạn tận thức chỉ có nghĩa là thấy cái “thức hữu vi” tự biến mất theo duyên khởi, để sẽ hiển lộ cái tánh biết, cái thức vô vi, cái không hình tướng, cái vô tận vô biên vẫn bao trùm thế giới này. Thiền Tông ẩn dụ rằng, thức sanh diệt, hay tưởng sanh diệt, hay niệm sanh diệt, cũng như sóng sinh khởi rồi biến mất, nhưng nước không hề biến mất, vì nước chính là “thức không đặc tướng” vẫn không hề sanh diệt. Trong Kinh DN 11, Đức Phật nói về đoạn tận thức hữu vi để giải thoát, như sau, bản dịch của Thầy Minh Châu:
“Này Tỷ-kheo, câu hỏi phải nói như sau: “Chỗ nào mà địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, dài ngắn, tế, thô, tịnh, bất tịnh không có chân đứng? Chỗ nào cả danh và sắc tiêu diệt hoàn toàn?” và đây là câu trả lời cho câu hỏi này:
“Thức là không thể thấy, vô biên, biến thông hết thảy xứ. Ở đây, địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại không có chân đứng. Ở đây, cũng vậy dài, ngắn, tế, thô, tịnh và bất tịnh. Ở đây danh và sắc tiêu diệt hoàn toàn. Khi thức diệt, ở đây mọi thứ đều diệt tận”.
Thế Tôn thuyết như vậy. Kevaddha, cư sĩ trẻ tuổi hoan hỷ tín thọ lời dạy của Thế Tôn.” (3)
Tuy nhiên, nên thấy rằng, khi học Phật, cần phải có nền tảng căn bản nhất. Nền tảng căn bản phải có trước khi thực hành pháp phải là: phải tin vào Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng), phải quy y, phải thọ giới, phải tin luật nhân quả, phải tin rằng bố thí sẽ đưa tới quả lành. Nếu bạn chưa trọn lòng tin vào luật nhân quả, sẽ tới một lúc có thể rơi vào tà kiến.
Để có thể tin vào luật nhân quả, bạn nên đọc, nghiền ngẫm kỹ Kinh MN 135, nơi đây chúng ta chỉ dẫn ra một phần, theo bản dịch của Thầy Minh Châu:
“Nhưng ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay đàn ông, từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào thiện thú, Thiên giới, ở đời. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào thiện thú, Thiên giới, ở đời, nếu người ấy đi đến loài Người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy được trường thọ. Con đường ấy đưa đến trường thọ, này Thanh niên, tức là từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình....
... Nhưng ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông có bố thí cho Sa-môn hay cho Bà-la-môn các đồ ăn uống … ngọa cụ, nhà cửa, đèn đuốc. Do nghiệp ấy … thiện thú … nhiều tài sản. Con đường đưa đến nhiều tài sản nhỏ … ngọa cụ, nhà cửa, đèn đuốc.
... Nhưng ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi đến Sa-môn hay Bà-la-môn, có hỏi: “Thưa Tôn giả, thế nào là thiện? Thế nào là bất thiện … lợi ích, an lạc lâu dài? Do nghiệp ấy … thiện thú … đầy đủ trí tuệ. Con đường đưa đến đầy đủ trí tuệ … lợi ích, an lạc lâu dài?” (4)
Trên đường tu, Đức Phật khuyến tấn chúng ta là hãy bố thí. Thậm chí, cũng cần phải bố thí cho người phạm giới, người phàm phu, người theo ác giới, vì bố thí cho bất kỳ ai cũng đều có công đức. Đặc biệt, bạn có thể nói rằng bạn nghèo quá, không biết làm sao bố thí, hay là bạn quá bận nên không vào chùa làm công quả được. Không sao. Vậy thì bạn ngồi làm thơ hay viết truyện về Phật pháp gửi các nơi cũng là bố thí pháp. Hay là bạn mỗi ngày tìm một đoạn Kinh, hay một bài Kệ Kinh Pháp Cú, rồi bạn phóng lên Facebook… cũng là bố thí pháp, sẽ có vô lượng công đức.
Bạn hãy đọc tụng, nghiền ngẫm Kinh MN 142 (tương đương A Hàm là Kinh MA 180) để thấy được bố thí đem tới công đức vô lượng. Bản dịch Thầy Minh Châu trích như sau:
“Tại đây, này Ānanda, sau khi bố thí cho các loại bàng sanh, cúng dường này có hy vọng đem lại trăm phần công đức. Sau khi bố thí cho những phàm phu theo ác giới, cúng dường này có hy vọng đem lại ngàn phần công đức. Sau khi bố thí cho các phàm phu gìn giữ giới luật, cúng dường này có hy vọng đem lại trăm ngàn lần công đức. Sau khi bố thí cho các người ngoại học đã ly tham trong các dục vọng, cúng dường này có hy vọng đem lại trăm ngàn ức lần công đức. Sau khi bố thí cho các vị trên con đường chứng quả Dự lưu, cúng dường này có hy vọng đem lại vô số vô lượng công đức. Còn nói gì đến những vị đã chứng quả Dự lưu? Còn nói gì đến những vị trên con đường chứng quả Nhất lai? Còn nói gì đến những vị đã chứng quả Nhất lai? Còn nói gì đến những vị trên con đường chứng quả Bất lai? Còn nói gì đến những vị đã chứng quả Bất lai? Còn nói gì đến những vị trên con đường chứng quả A-la-hán? Còn nói gì đến những vị đã chứng quả A-la-hán, đệ tử Như Lai? Còn nói gì đến những vị Ðộc Giác Phật? Còn nói gì đến các Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác?” (5)
Tuy nhiên, câu hỏi là, nên bố thí như thế nào. Kinh AN 5.148 ghi lời Đức Phật dạy cách bố thí, bản dịch Thầy Minh Châu trích như sau:
“Bố thí có lòng tin, bố thí có kính trọng, bố thí đúng thời, bố thí với tâm không gượng ép, bố thí không làm thương tổn mình và người...
...Và này các Tỷ-kheo, sau khi bố thí không làm thương tổn mình và người, chỗ nào, chỗ nào, quả dị thục của sự bố thí ấy đem lại kết quả: Người ấy được giàu sang, đại phú, tài sản sung mãn; và không một tai nạn nào từ đâu đến, đến với tài sản của người ấy, hoặc từ lửa, từ nước, từ vua, từ ăn trộm, từ các người thù địch hay từ các người thừa tự.” (6)
Bạn đừng nên nghĩ rằng bố thí chỉ để cầu phước, không dính gì tới chuyện tu. Đừng nghĩ như thế. Theo Phật Giáo Đại Thừa, bố thí với tâm quán sát tam luân không tịch (nhìn thấy người cho, người nhận, và cái được bố thí đều là không), thì sẽ giải thoát. Bên Tạng Pali cũng ghi rằng, bố thí là một pháp tu, và nếu bố thí đúng pháp thì sẽ đắc quả A Na Hàm (Bất Lai, còn gọi là Bất Hoàn). Bạn nên thực hiện pháp bố thí này hàng ngày, nếu có thể, thí dụ, khi đi làm, gặp một người ăn xin, bạn hãy cho họ một chút gì. Hay bất cứ khi nào bước ngang qua một ngôi chùa, bạn hãy rút tờ giấy bạc đưa vào thùng phước sương, với trong lòng không vướng bận lấn cấn gì hết. Bố thí như thế cũng là tu. Xin mời bạn đọc kỹ Kinh AN 7.52 để thấy rằng, người bố thí sẽ đắc quả Bất lai, không trở về cõi khổ này nữa. Kinh này, bản dịch của Thầy Minh Châu, trích như sau:
“—Này Sàriputta, ở đây, ai bố thí không với tâm cầu mong, bố thí không với tâm trói buộc, bố thí không với mong cầu được chất chứa, bố thí không với ý nghĩ: “Ta sẽ hưởng thọ cái này trong đời sau”, bố thí không với ý nghĩ: “Lành thay, sự bố thí”, bố thí không với ý nghĩ: “Cái này đã được cho trong đời quá khứ, đã được tổ tiên làm trong quá khứ, ta không nên để truyền thống gia đình này bị bỏ quên”, bố thí không với ý nghĩ: “Ta nấu ăn, các người này không nấu ăn. Ta không xứng đáng là người nấu ăn, lại không bố thí cho người không nấu ăn”, bố thí không với ý nghĩ: “Như các vị ẩn sĩ thời xưa có những tế đàn lớn như Atthaka, Vàmaka, Vàmadeva, Vessàmitta, Yamataggi, Angìrasa, Bhàradvàja, Vàsettha, Kassapa, Bhagu; cũng vậy, ta sẽ là người san sẻ các vật bố thí này”, bố thí không với ý nghĩ: “Do ta bố thí vật bố thí này, tâm được tịnh tín, hỷ duyệt khởi lên”. Nhưng vị ấy bố thí với ý nghĩ để trang nghiêm tâm, để trang bị tâm. Do vị ấy bố thí như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở Phạm chúng thiên. Và khi vị ấy, nghiệp được đoạn tận, thần lực ấy, danh tiếng ấy, uy quyền ấy được đoạn tận, vị ấy trở thành vị Bất lai, không trở lui trạng thái này.” (7)
Đó là những pháp tu thích nghi với những người có tâm hồn đơn sơ, hay những người không được học nhiều chữ nghĩa, hay những người đã quên hầu hết những gì đã học và không còn nhớ các khái niệm căn bản như định, như huệ, như vân vân. Nơi đây, tâm hồn đơn sơ của bạn chỉ cần trọn lòng tin vào Tam Bảo, ráng sức giữ giới nghiêm túc, tin sâu nhân quả, thường trực quán sát vô thường, thường trực niệm vô niệm, và hàng ngày hãy tu đúng pháp bố thí. Hãy đơn sơ như thế. Đó là những gì một người rất mực đời thường có thể làm được. Đức Phật nói, chỉ như thế, là đủ để chứng quả Bất lai.
GHI CHÚ:
(1) Kinh SN 22.12: https://suttacentral.net/sn22.12/vi/minh_chau
(2) Kinh SN 12.64: https://suttacentral.net/sn12.64/vi/minh_chau
(3) Kinh DN 11: https://suttacentral.net/dn11/vi/minh_chau
(4) Kinh MN 135: https://suttacentral.net/mn135/vi/minh_chau
(5) Kinh MN 142: https://suttacentral.net/mn142/vi/minh_chau
(6) Kinh AN 5.148: https://suttacentral.net/an5.148/vi/minh_chau
(7) Kinh AN 7.52: https://suttacentral.net/an7.52